Để đời sống kinh tế - xã hội của đồng bào Khơ-me ở vùng Nam Bộ phát triển bền vững

TS. NGUYỄN THỊ HUỆ
Trưởng Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khơ-me Nam Bộ, Trường Đại học Trà Vinh
10:27, ngày 01-06-2020

TCCS - Những năm qua, dù điều kiện đất nước còn khó khăn, nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó có nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội của đồng bào Khơ-me ở vùng Nam Bộ. Các địa phương trong vùng vận dụng linh hoạt các chính sách dân tộc vào thực tiễn, giúp đời sống tinh thần, vật chất của đồng bào Khơ-me ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên, để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào Khơ-me bền vững, cần tiếp tục thực hiện những giải pháp đồng bộ, hiệu quả hơn.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc với các đại biểu tiêu biểu dân tộc Khơ-me nhân dịp tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây 2019 tại tại thành phố Cần Thơ, ngày 6-4-2019_Ảnh: TTXVN

Từ các chủ trương phù hợp và đúng đắn

Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục đề cao chính sách dân tộc “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ”. Thời gian qua, hệ thống chính sách, pháp luật về dân tộc được ban hành khá đầy đủ, toàn diện và bao quát hầu hết các lĩnh vực liên quan đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cơ chế xây dựng chính sách, pháp luật từng bước được đổi mới theo hướng chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp cho từng hộ sang hỗ trợ cho cộng đồng, nhóm hộ, hỗ trợ người dân tự vươn lên thoát nghèo; các chính sách, các chương trình mục tiêu quốc gia có cơ chế quản lý thống nhất, tập trung nguồn lực, thể hiện tính công khai, minh bạch, tạo động lực phát triển.

Nam Bộ là vùng có đông đồng bào Khơ-me sinh sống lâu đời (ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, Vĩnh Long, Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành phố Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh). Cùng với các dân tộc khác trên địa bàn, đồng bào Khơ-me đã góp nhiều công sức vào việc khai phá, giữ gìn và bảo vệ vùng đất phía Nam phên giậu của Tổ quốc. Tuy nhiên, đời sống kinh tế - xã hội của đồng bào Khơ-me vùng Nam Bộ nhìn chung còn nhiều khó khăn, đồng bào sinh sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn vốn là những địa bàn có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều mặt hạn chế, sản xuất, kinh doanh khó khăn do điều kiện địa hình chia cắt, điều kiện tự nhiên không thuận lợi; sản xuất nông nghiệp theo tập quán cũ, trình độ dân trí hạn chế, nên việc tiếp cận, vận dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất đạt hiệu quả chưa cao. Để góp phần tháo gỡ khó khăn đó, Đảng ta đã ban hành Chỉ thị số 68-CT/TW, ngày 18-4-1991, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI, “Về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khơ-me”; Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12-3-2003, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), “Về công tác dân tộc” và mới đây nhất là Chỉ thị số 19-CT/TW, ngày 10-1-2018, của Ban Bí thư, “Về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khơ-me trong tình hình mới”. Chính phủ ưu tiên bố trí nguồn lực, chỉ đạo các tỉnh, thành phố vùng Nam Bộ thực hiện hiệu quả các chương trình 134 và 135 và nhiều đề án hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, các chính sách an sinh xã hội, chăm lo sự nghiệp phát triển văn hóa, giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giúp đỡ chư tăng Phật giáo Nam tông Khơ-me tu học...

...đến những dấu ấn đáng khích lệ

Triển khai các chủ trương, chính sách trên vào thực tiễn, các tỉnh, thành phố có đông đồng bào Khơ-me đã cụ thể hóa thành nghị quyết của địa phương mình để thực hiện. Để các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đi vào thực tiễn đạt hiệu quả thiết thực, Hội Đoàn kết sư sãi tại các tỉnh, thành phố vùng Nam Bộ tăng cường công tác tuyên truyền, vận động các chư tăng, phật tử chung sức đồng lòng thực hiện các chính sách dân tộc, chịu khó vươn lên thoát nghèo, nhờ đó nhiều hộ vươn lên đủ ăn, thu nhập khá; xuất hiện ngày càng nhiều mô hình tập thể, cá nhân hộ dân tộc Khơ-me làm kinh tế giỏi.

Các tỉnh, thành phố vùng Nam Bộ tập trung vào phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu, phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào Khơ-me. Các địa phương chú trọng vào nhóm chính sách hỗ trợ sản xuất và sinh kế, bao gồm các chính sách tín dụng, ưu đãi cho vay vốn phát triển sản xuất, hỗ trợ đất, công cụ sản xuất, giống, cây con, hỗ trợ dạy nghề miễn phí, cung cấp dịch vụ khuyến nông - lâm - ngư miễn phí; hỗ trợ hộ nghèo đồng bào Khơ-me về nhà ở, đất ở, giải quyết nhu cầu vốn cho các hộ nghèo cần vốn sản xuất, phát triển kinh tế gia đình; đồng thời, chuyển giao khoa học - kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp. Với sự nỗ lực vươn lên, nhiều gia đình đồng bào Khơ-me đã trở nên khấm khá và không ít hộ trở thành chủ trang trại. Đáng chú ý là qua ba giai đoạn (1999 - 2005, 2006 - 2010, 2011 - 2015) triển khai, toàn vùng Nam Bộ đã có trên 100 số xã, trung tâm cụm xã hoàn thành mục tiêu Chương trình 135, xây dựng trên 6.100 công trình thiết yếu và hàng trăm dự án phát triển sản xuất kinh tế cho đồng bào Khơ-me; trên 99% số xã vùng đồng bào Khơ-me sinh sống có đường ô-tô đến trung tâm, bình quân 60% số đường ấp - liên ấp được đổ nhựa hoặc bê tông góp phần làm thay đổi diện mạo địa bàn sinh sống.

Để thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020, các tỉnh, thành phố đã hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cho cộng đồng và cán bộ cơ sở của 126 xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu và thôn bản với tổng kinh phí trên 743 tỷ đồng. Các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua hỗ trợ các hộ đồng bào Khơ-me vay khoảng 778 tỷ đồng từ nguồn vốn, tín dụng, giúp hơn 521.000 lượt hộ phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, sinh kế và đã có trên 262.000 hộ thoát nghèo. Công tác khuyến nông, khuyến ngư, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao được quan tâm. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, cơ giới hóa trong sản xuất được đẩy mạnh hơn vào đời sống sản xuất của đồng bào Khơ-me, mô hình trồng lúa cánh đồng lớn được nhân rộng với năng suất, chất lượng cao. Sản xuất nông nghiệp từ chỗ sản xuất 1 vụ lúa/năm, đến nay có nơi sản xuất 2 - 3 vụ lúa/năm hoặc 2 vụ lúa kết hợp với 1 vụ màu/năm, qua đó nâng cao thu nhập, đời sống của đồng bào Khơ-me ngày càng khởi sắc.

Hệ thống trường học, cơ sở khám, chữa bệnh, hệ thống thủy lợi, điện lưới quốc gia, cơ sở thương mại và dịch vụ,... được đầu tư, từng bước đáp ứng nhu cầu của đồng bào. Những năm qua, toàn vùng Nam Bộ đã có 98.096 lao động là đồng bào dân tộc Khơ-me được đào tạo nghề, chủ yếu là may dân dụng, điện dân dụng, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp nuôi tôm cua biển, sản xuất giống thủy sản, chăn nuôi thú y, thêu tay... Bên cạnh đó, công tác giải quyết việc làm cho lao động cũng được quan tâm, tạo việc làm mới cho 954.600 lao động, trong đó có 141.573 lao động dân tộc Khơ-me. Trong đó, các tỉnh, thành thuộc miền Đông Nam Bộ (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh) đẩy mạnh phát triển trang trại, khu công nghiệp, nhiều hình thức kinh doanh, dịch vụ đã thu hút trên 114.000 lao động là người đồng bào dân tộc Khơ-me tham gia lao động. Đáng ghi nhận là một số địa phương, như Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, thành phố Cần Thơ,... đã tạo điều kiện cho con em đồng bào Khơ-me tham gia các chương trình xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó, tại các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang đã hình thành xí nghiệp giày da, mở rộng quy mô chế biến hải sản, xây dựng cơ sở chế biến hạt điều,... thu hút hàng nghìn lao động là người dân tộc Khơ-me. Những việc làm trên góp phần giảm bình quân từ 3 - 5%/năm tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào Khơ-me ở vùng Nam Bộ trong những năm gần đây.

Gia đình anh Thạch Hoài Phong và chị Lê Thị Ngọc Rạng, dân tộc Khơ-me, ở ấp Sóc Chùa, xã Thuận Hòa, huyện Cầu Ngang (tỉnh Trà Vinh) được vay vốn ưu đãi để cải tạo đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng màu, cho hiệu quả kinh tế cao_Ảnh: TTXVN

Là địa phương có đông đồng bào Khơ-me sinh sống, điều kiện phát triển kinh tế khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn nhiều so với các tỉnh khác, nhưng với sự quyết tâm của toàn hệ thống chính trị, công tác giảm nghèo ở Trà Vinh trong năm 2019 đạt được những kết quả đáng ghi nhận, trong đó tỷ lệ hộ nghèo Khơ-me giảm gần 5% và tính đến cuối tháng 9-2019 đã cấp phát 479.168 thẻ bảo hiểm y tế cho các đối tượng, với tổng kinh phí 379 tỷ đồng. Cũng trong năm 2019, tỉnh Sóc Trăng đã giải quyết việc làm cho hơn 31.070 lao động, vượt 19,5% kế hoạch, tăng 9,5% so với năm 2018; tổ chức tuyển sinh, dạy nghề cho 13.268 người, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 59%; hoàn thành xây dựng 400 căn nhà ở cho hộ nghèo, hoàn thành giải quyết 100% hộ gia đình chính sách nghèo có nhà ở mới, hỗ trợ 135 căn nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo khác... Nhờ vậy, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh Sóc Trăng đã giảm 3,49% so với năm trước. Một trong những chính sách quan trọng được tỉnh Bạc Liêu triển khai có hiệu quả đó là đẩy mạnh công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc Khơ-me, nên năm 2019 toàn tỉnh đã đào tạo nghề cho hơn 1.670 lao động (chiếm 4,36%/tổng số lao động được đào tạo); giải quyết việc làm cho hơn 1.130 người. Cùng với đó, ngành chức năng và các địa phương trong tỉnh kết hợp lồng ghép các chương trình, dự án và các chính sách hỗ trợ khác cho đồng bào dân tộc Khơ-me phát triển sinh kế, điển hình là Chương trình 135 (giai đoạn 2016 - 2020) đã đầu tư hơn 28,28 tỷ đồng cho 10 xã và 41 ấp đặc biệt khó khăn. 

Bên cạnh đó, các hoạt động văn hóa cũng được các địa phương vùng Nam Bộ quan tâm phát triển nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho đồng bào Khơ-me. Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao mang tính quần chúng phát triển khá mạnh. Hiện nay, toàn vùng Nam Bộ có 5 đoàn nghệ thuật Khơ-me chuyên nghiệp (thuộc các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau) và hằng năm các đoàn nghệ thuật này luôn chủ động xây dựng nhiều chương trình nghệ thuật đặc sắc phục vụ đồng bào.

Những “rào cản” cần tháo gỡ và nguyên nhân

Đánh giá một cách khách quan cho thấy, bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận, tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong đồng bào Khơ-me vùng Nam Bộ vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Đó là, đại đa số đồng bào dân tộc Khơ-me sinh sống ở vùng nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn, nơi đây vốn là những địa bàn có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều mặt yếu kém, sản xuất khó khăn do điều kiện địa hình chia cắt, điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Cùng với đó, tập quán sản xuất của đồng bào Khơ-me trước đây cũng như hiện nay là bằng nghề nông, trong đó trồng lúa nước là chủ yếu; chăn nuôi và trồng trọt hoa màu lúc nông nhàn được xem là công việc làm thêm. Do điều kiện kinh tế chưa cao khiến đồng bào Khơ-me chưa chú trọng đầu tư cho con em mình ăn học, dẫn đến trình độ dân trí chưa cao. Những năm qua, đồng bào dân tộc Khơ-me khu vực Tây Nam Bộ dịch chuyển lao động khá nhiều đến các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh... Vấn đề này dẫn đến nhiều hệ lụy, một trong số đó là đã, đang có sự mai một trong giữ gìn phong tục, tập quán, bảo tồn bản sắc văn hóa tốt đẹp của đồng bào Khơ-me.

Nguyên nhân chủ quan là do chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế; một số phong tục, tập quán lạc hậu gây cản trở cho hoạt động sản xuất... Việc cập nhật thông tin, ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất hiệu quả chưa cao do đa số người dân vẫn quen với việc sản xuất nông nghiệp theo tập quán cũ. Ngoài ra, vẫn còn một bộ phận người dân chưa có ý chí mạnh mẽ trong việc vươn lên làm giàu, còn trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư, trợ cấp của Nhà nước.

Nguyên nhân khách quan là trong những năm gần đây, tình hình biến đổi khí hậu, sạt lở đất bờ sông, bờ biển, hạn hán, xâm nhập mặn diễn biến ngày càng gay gắt, khó lường, nhất là ở vùng Tây Nam Bộ nơi có đông đồng bào Khơ-me sinh sống, gây nhiều thiệt hại về đời sống và sản xuất. Thực tế cho thấy, công tác giảm nghèo chưa thu hút được các thành phần kinh tế tham gia, đầu tư nguồn lực, trong khi đồng bào Khơ-me lại sống ở vùng có địa bàn khó khăn, thời tiết không thuận lợi nên các doanh nghiệp ít quan tâm đầu tư. Một số chính sách giảm nghèo đối với đồng bào Khơ-me vẫn còn bất cập, chồng chéo về nội dung, dẫn tới việc phân tán các nguồn lực trong thực hiện giảm nghèo.

Cần triển khai thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp

Tổ hợp tác đan đát tại ấp Thời Hòa B, thị trấn Cờ Đỏ, huyện Cờ Đỏ (tỉnh Cần Thơ) giúp cho nhiều hội viên đồng bào dân tộc Khơ-me có việc làm thu nhập ổn định_Ảnh: baocantho.com.vn

Để đời sống kinh tế - xã hội của đồng bào Khơ-me vùng Nam Bộ phát triển bền vững, trong thời gian tới, các địa phương có đông đồng bào Khơ-me sinh sống cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp.

Một là, tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 19-CT/TW, ngày 10-1-2018, Ban Bí thư Trung ương Đảng, “Về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khơ-me trong tình hình mới”. Cùng với đó, các cơ quan chức năng cần rà soát lại các chính sách hiện có để hạn chế sự chồng chéo về nội dung trong các chương trình, dự án dẫn tới định mức hỗ trợ trong mỗi dự án không đáp ứng được nhu cầu thực tế; đặc biệt, chính sách giảm nghèo cho đồng bào Khơ-me phải phù hợp với đặc điểm tâm lý, văn hóa, phong tục của dân tộc Khơ-me.

Hai là, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp cần đồng bộ các yếu tố về vốn, kỹ thuật, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cần xây dựng mô hình kinh tế, sản xuất phù hợp với từng địa bàn, có sự tham gia của “4 nhà”: chính quyền, nhà khoa học, doanh nghiệp và bản thân từng hộ đồng bào Khơ-me.

Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị vùng đồng bào dân tộc Khơ-me, chăm lo xây dựng và phát huy vai trò lực lượng cốt cán, người có uy tín, chức sắc tiêu biểu. Củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở đảng ở vùng đồng bào dân tộc Khơ-me, phát huy tốt vai trò của Hội Đoàn kết sư sãi trong công tác tuyên truyền, vận động đồng bào tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng nông thôn mới để vùng đồng bào Khơ-me ngày càng giàu đẹp.

Bốn là, gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm, để đồng bào có thu nhập ổn định và thường xuyên. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về thể chất và trí lực, đặc biệt là coi trọng giáo dục - đào tạo, dạy nghề cho đồng bào Khơ-me.

Năm là, chú trọng làm tốt công tác dân vận, qua đó nâng cao ý thức vươn lên làm giàu mạnh mẽ, ý thức nâng cao trình độ, xóa bỏ tập quán sản xuất lạc hậu, tích cực học hỏi áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất trong đồng bào Khơ-me. Phát huy vai trò các chùa Khơ-me trở thành nơi sinh hoạt văn hóa, học tập, chuyển giao khoa học - kỹ thuật cho đồng bào dân tộc Khơ-me./.

* Bài viết là sản phẩm của Đề tài khoa học mã số: CTDT.50.18/16-20