Hội nhập kinh tế quốc tế - Những vấn đề đặt ra đối với ngành Điện tử - Viễn thông Việt Nam
Sáng 25-12-2008, tại Hà Nội, Bộ Công Thương, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm công nghệ thông tin Công nghiệp và Thương mại, Văn phòng Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế đã tổ chức Hội thảo: “Hội nhập kinh tế quốc tế - Những vấn đề đặt ra đối với ngành Điện tử - Viễn thông Việt Nam”.
Đây là Hội thảo nằm trong khuôn khổ chương trình “Đánh giá tác động hội nhập sau hai năm gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam và tôn vinh các doanh nghiệp Việt Nam tiêu biểu”. Đông đảo các nhà quản lý, các chuyên gia, đại diện các doanh nghiệp cũng như những người quan tâm đến ngành điện tử - viễn thông Việt Nam đã tới dự.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của ngành điện tử - viễn thông - một trong những ngành được coi là “mũi nhọn” và chịu nhiều tác động sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tại hội thảo, các đại biểu đã nhìn nhận lại thực trạng và những tác động của WTO trong những năm qua, từ đó thảo luận về những xu hướng phát triển mới của ngành điện tử, điện lạnh - viễn thông; xu hướng liên kết sản xuất trong các doanh nghiệp điện tử; xu hướng phát triển nguồn nhân lực; phân tích về thị trường bán lẻ: cơ hội và thách thức của ngành sau khi gia nhập WTO cũng như những phân tích về hoạt động sở hữu trí tuệ trong các doanh nghiệp. Những vấn đề về cạnh tranh, về vai trò của Hiệp hội đối với các thành viên trong thời kỳ hội nhập cũng được các đại biểu đề cập tới.
Khi Việt Nam tham gia vào WTO, nền kinh tế đã có những biểu hiện tích cực như:
- Tốc độ tăng trưởng cao (GDP năm 2007 đạt 8,48%; năm 2008 ước đạt 6,23%), vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh (năm 2007 đạt 20,3 tỉ USD tăng 69,2% năm 2008 ước đạt 60 tỉ USD);
- Thị trường xuất khẩu được mở rộng (kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 48,56 tỉ USD, tăng 21,9% so với chỉ tiêu đặt ra 17,4%, kim ngạch xuất khẩu năm 2008 ước tăng 31,8%, tăng gần 12%, tổng thu cân đối ngân sách nhà nước ước đạt 399.000 tỉ đồng, tăng hơn 76.000 tỉ đồng so với chỉ tiêu của Quốc hội);
- Thâm hụt thương mại giảm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng (từ 574.046 tỉ đồng năm 2007 lên 601.478,2 tỉ đồng - tính đến hết tháng 11-2008);
- Môi trường kinh doanh được cải thiện với những chủ trương chính sách minh bạch hơn, thúc đẩy sự phát triển của các ngành hàng; tạo điều kiện cho các loại thị trường phát triển phù hợp với thông lệ quốc tế và theo định hướng;
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực (tăng tỷ trọng các ngành xuất khẩu chủ lực, nông nghiệp, chế biến thực phẩm, các ngành cung cấp các nguyên liệu vật tư cho sản phẩm, các ngành cạnh tranh kém như dệt may, xe máy và phụ tùng, nhựa, chế biến rau quả... suy giảm);
- Tăng việc làm, tăng năng suất lao động nhờ chuyển dịch cơ cấu lao động; số người thất nghiệp giảm, thu nhập của người dân tăng lên, công tác xóa đói giảm nghèo đạt hiệu quả và phát huy tác dụng...
Do thị trường được mở rộng và không bị phân biệt đối xử, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận với các nguồn tín dụng, công nghệ hiện đại, các loại hình dịch vụ, vật tư, nguyên liệu và cơ hội xuất khẩu sản phẩm, ứng dụng những phương thức quản lý và sản xuất kinh doanh tiên tiến... Đồng thời, các doanh nghiệp còn có thể tận dụng cơ chế của WTO để giải quyết các tranh chấp với các nước thành viên khác nhằm bảo vệ quyền lợi trong các cuộc tranh chấp thương mại.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp điện tử nói chung cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn. Tốc độ tăng trưởng tuy có cao nhưng đã chậm lại, lạm phát tăng cao vượt xa mức dự báo; thị trường tài chính, tiền tệ có nhiều biến động, hệ thống ngân hàng bộc lộ những hạn chế, yếu kém gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp, tác động không nhỏ đến tâm lý của doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng; nguồn nhân lực trong nước không đáp ứng được với những yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài dẫn đến việc mất cân đối giữa cung cầu lao động gây nên khả năng tái nghèo tăng cao; áp lực cạnh tranh gay gắt... cũng đã tác động không nhỏ đến sự phát triển của các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, một trong những khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt đó là chỉ còn 1 tuần nữa, bắt đầu từ ngày 1-1-2009, Việt Nam sẽ dỡ bỏ hàng rào thuế quan, điều đó đồng nghĩa với việc sự bảo hộ của Nhà nước đối với các ngành sản xuất trong nước, bao gồm cả các ngành điện tử sẽ không còn nữa. Những quy định ràng buộc khi gia nhập WTO chắc chắn sẽ có những tác động tới doanh nghiệp, song cho tới thời điểm này, theo các chuyên gia, các nhà quản lý, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thực sự hiểu rõ về luật WTO, chưa kịp thời chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, chưa vạch ra hướng đi rõ ràng cho mình trong giai đoạn mới. Mặt khác, cùng với việc các sản phẩm điện tử nguyên chiếc được sản xuất từ các nước khác và sự tham gia sản xuất các hãng điện tử nổi tiếng ngay tại thị trường trong nước đã làm cho các doanh nghiệp điện tử Việt Nam đã khó khăn càng ít có khả năng cạnh tranh hơn.
Đại diện của các doanh nghiệp cho rằng, việc ứng dụng những công nghệ mới và đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam thời gian qua chưa theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ trong khu vực cũng như trên thế giới, nên chỉ có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là được hưởng “miếng bánh” xuất khẩu và được hưởng lợi từ việc Việt Nam gia nhập WTO cũng như những ưu đãi về nhập khẩu mà các nước dành cho Việt Nam. Chính sự yếu kém về công nghệ đã làm cho năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam không đáp ứng được yêu cầu, sản phẩm sản xuất ra có giá thành cao và chất lượng không phù hợp theo chuẩn mực quốc tế.
Cũng theo các doanh nghiệp, ngoài các lý do về khả năng tài chính hạn chế thì một số chính sách về khoa học công nghệ chưa hợp lỳ, cũng như sự đầu tư của nhà nước chưa thật sự thích đáng cũng là nguyên nhân gây ra sự lạc hậu về công nghệ của ngành hàng này.
Theo các chuyên gia và các nhà quản lý, hiện nay, phần lớn các sản phẩm của Việt Nam đều sản xuất theo thiết kế của nước ngoài bởi lực lượng lao động trong ngành điện tử tuy được đánh giá cao về kỹ năng, mức độ tiếp thu công nghệ mới nhưng các nhà khoa học đầu ngành, các kỹ sư công nghệ, các kỹ sư nghiên cứu thiết kế và phát triển sản phẩm - những người có khả năng tạo ra những sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao cho ngành điện tử Việt Nam lại đang rất thiếu.
Nhân công ở nước ta hiện nay rẻ hơn so với các nước trong khu vực, nhưng năng suất lao động lại chỉ ở mức trung bình và thấp, chủ yếu là lao động thủ công, tác phong còn chậm. Trình độ quản lý - yếu tố tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp cũng đang bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém. Đây sẽ là mối lo ngại rất lớn khi Việt Nam thực hiện cam kết thị trường phân phối hàng hóa công bằng đối với cả doanh nghiệp trong nước và nước ngoài kể từ ngày 1-1-2010.
Trước những thực trạng, khó khăn và những thách thức đặt ra, các đại biểu đã đưa ra một số đề xuất:
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước:
Chính phủ cần xác định công nghệ điện tử là ngành công nghiệp trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân để có kế hoạch dài hạn phát triển ngành hàng, có sự quan tâm và đầu tư thích đáng.
Nhà nước tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách hành chính, hoàn thiện luật pháp để thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài và lựa chọn các sản phẩm, các công đoạn sản xuất trọng điểm tập trung đầu tư, chỉ đạo phương hướng phát triển phù hợp với hệ thống sản xuất khu vực và trên thế giới.
Tiếp tục phổ biến rộng rãi các nội dung thỏa thuận, các cam kết WTO trong nhân dân và doanh nghiệp để mọi người cùng hiểu rõ, trên cơ sở đó tận dụng được các cơ hội mà WTO mang lại nhằm ứng phó với những khó khăn, thách thức nảy sinh trong quá trình hội nhập.
Đối với các doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp nói chung, đặc biệt là các doanh nghiệp điện tử Việt Nam cần phải tự tin và những nội lực của bản thân, không trông chờ, ỷ lại sự bảo hộ của nhà nước, nắm vững, nắm chắc luật “chơi”, cũng như những cam kết WTO để hoạch định lại chiến lược sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Tập trung đầu tư theo chiều sâu, chủ động tìm kiếm đối tác trong khu vực nhất là các nước có công nghệ điện tử phát triển để chào mời hợp tác sản xuất, đầu tư, chuyển giao công nghệ.
Với đặc điểm chuyên môn hóa vào toàn cầu hóa của công nghệ điện tử hiện đại, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ nên chọn một chuyên ngành, tập trung vào một sản phẩm mà mình có thế mạnh nhằm tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao, tạo chỗ đứng trên thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Đối với các hiệp hội doanh nghiệp:
Cần liên kết các hội viên hoạt động sản xuất kinh doanh từng loại hình sản phẩm trong các câu lạc bộ sản xuất, phân phối nước ngoài khi mở cửa thị trường.
Tập hợp và cung cấp những thông tin cần thiết và tư vấn cho các doanh nghiệp về cam kết các quy định của WTO về công nghệ sản phẩm mới cũng như sự thay đổi cơ cấu và phương thức sản xuất của ngành công nghệ điện tử thế giới giúp các doanh nghiệp hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh, phát triển sản xuất, xác định thế mạnh của mình trong việc tham gia vào hệ thống sản xuất và thương mại khu vực.
Bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp và thực hiện vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước. Đồng thời, trợ giúp các doanh nghiệp trong quan hệ với các doanh nghiệp nước ngoài.
Hội thảo được xem là cơ hội để các doanh nghiệp điện tử Việt Nam gặp gỡ, trao đổi thêm về kinh nghiệm xây dựng và bảo vệ thương hiệu của mình cũng như đánh giá kết quả mà ngành điện tử - viễn thông đã đạt được trong gần 2 năm qua, cũng như đưa ra những kiến nghị, đề xuất những giải pháp nhằm phát triển ngành điện tử - viễn thông trong thời gian tới./.
Đổi mới công tác xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế  (25/12/2008)
CPI giảm tháng thứ ba liên tiếp  (25/12/2008)
Chính phủ họp phiên cuối năm: Năm 2008, Chính phủ đề cao trách nhiệm trước đất nước, nhân dân trong chỉ đạo, điều hành  (25/12/2008)
Kích cầu bằng cả chính sách và vật chất  (25/12/2008)
Cơ cấu dân số Việt Nam có gì mới?  (25/12/2008)
Đại hội V Hội Nông dân Việt Nam thành công tốt đẹp  (24/12/2008)
- Bảo tồn các di sản văn hóa vật thể trước thách thức của biến đổi khí hậu ở thành phố Cần Thơ hiện nay
- Tự chủ chiến lược dưới tác động của các vấn đề an ninh phi truyền thống tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam ngày càng bền vững, tiến bộ, bản sắc, tương xứng với trình độ phát triển kinh tế - xã hội hiện nay theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đảng viên trong Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 2)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay