Thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu trong bối cảnh mới
TCCS - Liên minh kinh tế Á - Âu (EAEU) bao gồm năm nước thành viên (Nga, Bê-la-rút, Ca-dắc-xtan, Cư-rơ-gư-xtan và Ác-mê-ni-a) có quan hệ kinh tế - chính trị truyền thống với Việt Nam. Trong những năm gần đây, quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và các nước EAEU không ngừng được phát triển, đặc biệt từ sau khi Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và EAEU có hiệu lực năm 2016.
Thực trạng quan hệ song phương giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á - Âu
Năm 2015, quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và EAEU đạt 3,6 tỷ USD, tăng 6% so với năm 2014(1). Tuy nhiên nếu tính về tỷ trọng chung, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang EAEU chỉ chiếm khoảng 1,1% tổng sản lượng nhập khẩu của khối và kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ EAEU chỉ chiếm khoảng 0,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của khối.
Việc Việt Nam trở thành đối tác ký FTA đầu tiên với EAEU đã mở ra một cơ hội rất lớn cho thị trường xuất khẩu của Việt Nam, tạo ra động lực mở cửa thị trường, thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp hai bên, giảm bớt các rào cản thuế quan, phi thuế quan và là cửa ngõ thuận lợi để thúc đẩy kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước trong EAEU. Với tỷ lệ gần 90% dòng thuế được cắt, giảm thuế quan nhập khẩu (trong đó 59,3% dòng thuế được xóa bỏ ngay khi Hiệp định có hiệu lực) là lợi thế lớn cho Việt Nam trong việc cạnh tranh với các nước khác trên thế giới khi xuất khẩu hàng hóa vào thị trường EAEU. Cụ thể, theo Hiệp định, đối với ngành dệt may, cam kết cắt giảm 82% tổng số dòng thuế, 42% xóa bỏ hoàn toàn với lộ trình tối đa trong 10 năm, 36% xóa bỏ hoàn toàn ngay khi Hiệp định có hiệu lực; đối với ngành giày dép, được cắt giảm 77% tổng số dòng thuế, 73% xóa bỏ hoàn toàn, lộ trình tối đa 5 năm; đối với ngành thủy sản, được cắt giảm 95% tổng số dòng thuế, lộ trình tối đa 10 năm, trong đó 71% số dòng thuế có thuế suất thuế nhập khẩu về 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực, 5% dòng thuế còn lại là các mặt hàng Việt Nam không có thế mạnh xuất khẩu.
Kể từ khi FTA giữa Việt Nam và EAEU (FTA VN - EAEU) có hiệu lực năm 2016, kim ngạch thương mại giữa hai bên có sự tăng trưởng mạnh mẽ, với mức tăng trung bình 30%/năm(2). Điều này cho thấy, Hiệp định là khung khổ pháp lý quan trọng, tạo hành lang thông thoáng cho các doanh nghiệp của hai bên thúc đẩy thương mại và đầu tư. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, về phía Việt Nam, các mặt hàng đã tận dụng được ưu đãi từ Hiệp định chủ yếu là dệt may, giày dép, thủy sản, nông sản, điện thoại và linh kiện. Về phía EAEU, các mặt hàng được hưởng lợi chủ yếu là cá hồi nước ngọt, ngô, phân bón các loại, dầu thực vật, sắt, thép, xe tải và một số phương tiện vận tải dùng động cơ đi-ê-gien,… Ngoài ra, nhiều dòng hàng của Việt Nam và các nước EAEU được áp dụng mức thuế suất nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định đang có xu hướng ngày càng tăng. Năm 2016, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EAEU đạt 3,04 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2015. Năm 2017, kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và EAEU đạt 3,9 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2016(3).
Như vậy, có thể thấy từ khi có hiệu lực, FTA VN - EAEU đã tạo điều kiện cho phát triển thương mại hai chiều giữa Việt Nam và các nước EAEU tăng mạnh hơn so với trước (mức tăng trung bình hằng năm trong giai đoạn 2011 - 2015 chỉ đạt khoảng 5%/năm, trong khi đó giai đoạn 2013 - 2015 thương mại song phương có xu hướng giảm). Theo dự báo của nhiều chuyên gia, xu hướng tăng trưởng thương mại sẽ còn tiếp tục được duy trì trong những năm tới, đặc biệt là cùng với lộ trình cắt giảm nhiều dòng thuế về 0%.
Về tỷ suất tận dụng các ưu đãi của Hiệp định, từ khi FTA VN - EAEU có hiệu lực (tháng 12-2016) cho đến hết tháng 6-2018, Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường EAEU trên 869 triệu USD hàng hóa sử dụng Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) mẫu EAV theo FTA VN - EAEU. Tính riêng sáu tháng đầu năm 2018, Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EAEU trên 281 triệu USD hàng hóa sử dụng C/O mẫu EAV, chiếm khoảng 23% tổng sản lượng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EAEU. Một số mặt hàng xuất khẩu có tỷ lệ sử dụng C/O mẫu EAV ở mức cao gồm hàng dệt may chiếm gần 78%, giày dép chiếm 59%, nhựa và các sản phẩm nhựa chiếm 87%(4).
Ngoài ra, nhằm tăng cường hợp tác kinh tế song phương trong khuôn khổ FTA VN - EAEU, hai bên đã đàm phán và ký kết các Nghị định thư, cụ thể: Nghị định thư giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên bang Nga về hỗ trợ sản xuất phương tiện vận tải có động cơ trên lãnh thổ Việt Nam ký ngày 21-3-2016 (Nghị định thư ô-tô với Nga); Nghị định thư giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa Bê-la-rút về hỗ trợ sản xuất phương tiện vận tải có động cơ trên lãnh thổ Việt Nam ký ngày 23-3-2016 (Nghị định thư ô-tô với Bê-la-rút); Nghị định thư về trao đổi thông tin hải quan ký ngày 28-6-2018.
Việc triển khai các Nghị định thư sản xuất phương tiện vận tải với Nga và Bê-la-rút nói chung và thành lập các liên doanh nói riêng sẽ góp phần đa dạng hóa thị trường phương tiện vận tải tại thị trường Việt Nam, tạo điều kiện gia tăng sự hiện diện các ngành hàng công nghiệp của Nga và Bê-la-rút tại Việt Nam. Đối với Nghị định thư trao đổi thông tin điện tử hải quan, thông qua các cơ chế trao đổi, truyền thông tin thường xuyên và ngay sau khi thông quan hàng hóa, Nghị định thư sẽ góp phần tích cực vào công tác đấu tranh phòng, chống các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hải quan, đẩy nhanh quá trình thông quan hàng hóa, tạo thuận lợi cho thương mại và thúc đẩy hàng hóa xuất, nhập khẩu của mỗi nước.
Bên cạnh những Nghị định thư nói trên, hai bên cũng đang đàm phán Nghị định thư về xây dựng hệ thống chứng nhận và xác minh xuất xứ điện tử, dự kiến sẽ sớm kết thúc đàm phán nhằm hỗ trợ việc xác minh tính xác thực của Chứng nhận xuất xứ để hưởng các ưu đãi theo FTA VN - EAEU.
Năm 2019, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EAEU đạt 10,4 tỷ USD, tăng 20,78% so năm 2018, chiếm 2% trong tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam với thế giới. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam tăng 6,43%, đạt 7,2 tỷ USD(5).
Đặc biệt, trong 10 tháng đầu năm 2020, mặc dù phải đối mặt với những diễn biến bất ổn của thương mại toàn cầu và đại dịch COVID-19, kim ngạch thương mại song phương giữa Việt Nam và EAEU vẫn tăng trưởng ấn tượng, với tổng kim ngạch hai chiều đạt 10,34 tỷ USD, tăng 17,98%. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 7,18 tỷ USD, tăng 16,15%; kim ngạch nhập khẩu đạt 1,16 tỷ USD, tăng 22,35% so cùng kỳ năm 2019(6). Tuy nhiên, dư địa cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực Á - Âu vẫn còn rất lớn, bởi nếu tính trên tổng kim ngạch nhập khẩu 10 tháng năm 2020 của EAEU khoảng 1.400 tỷ USD thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ chiếm 0,5% thị phần. Đáng nói Nga là một thị trường chiếm hơn 90% tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và EAEU, nhưng thương mại song phương giữa Việt Nam và Nga lại chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của hai nước, chỉ chiếm 0,7% tổng kim ngạch thương mại của Nga và chiếm 0,9% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam.
Về ngắn hạn, có thể nói Việt Nam đang đạt hiệu quả cao hơn EAEU kể từ khi FTA VN - EAEU có hiệu lực. Một trong những nguyên nhân chính là do dòng hàng xuất khẩu của Việt Nam tương đối đa dạng, chủ yếu là các mặt hàng tiêu dùng, được người dân sử dụng rộng rãi, như điện thoại di động, máy tính, hàng thực phẩm và hàng may mặc. Tất cả các nhóm hàng này đều tăng trưởng ngay từ những ngày đầu Hiệp định có hiệu lực. Về phần EAEU, sở dĩ tăng trưởng xuất khẩu chưa cao như Việt Nam vì hàng xuất khẩu từ EAEU chủ yếu là hàng phục vụ nhu cầu đầu tư, như dầu, sản phẩm chế biến từ dầu, phân bón, kim loại, thiết bị ô-tô. Những dòng hàng này khó gia tăng sản lượng xuất khẩu hơn vì cần có những hợp đồng lớn, những thỏa thuận vận chuyển đặc thù và khách hàng cần là những tập đoàn, tổng công ty lớn.
Đối với thương mại dịch vụ, trao đổi dịch vụ giữa Việt Nam và các nước EAEU còn hết sức khiêm tốn. Ngoài dịch vụ vận tải, bảo hiểm gắn liền với thương mại hàng hóa, hiện dịch vụ du lịch và giáo dục là hai loại hình dịch vụ được trao đổi phổ biến hơn cả.
Trong lĩnh vực đầu tư, Nga đứng thứ 25/135 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam (lũy kế tính đến ngày 20-12-2019). Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 11 tháng đầu năm 2019, Nga có 13 dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, tổng vốn đăng ký đạt 3,31 triệu USD; trong đó có đến 72 dự án đầu tư gián tiếp của các doanh nghiệp Nga với tổng số vốn đăng ký lên đến 25,61 triệu USD. Số dự án đầu tư của các doanh nghiệp Nga vào Việt Nam thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần. Theo Tổng Lãnh sự Liên bang Nga tại Thành phố Hồ Chí Minh, tính đến nay, tổng nguồn vốn đầu tư của Nga vào Việt Nam đạt 2,6 tỷ USD. Xu hướng vốn đầu tư trực tiếp của Nga vào Việt Nam chú trọng ở các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, hạ tầng giao thông, năng lượng, dầu khí, công nghiệp lắp ráp, công nghệ cao. Xu hướng này đang gia tăng vì đây là tiềm lực của các doanh nghiệp Nga và Việt Nam đang mời gọi đầu tư cho các lĩnh vực công nghiệp này. Ở chiều ngược lại, Việt Nam cũng đã có 22 dự án đầu tư vào Nga với tổng số vốn đầu tư mới và tăng vốn đạt gần 3 tỷ USD. Những dự án lớn nhất có thể kể đến như Công ty liên doanh Rusvietpetro, Trung tâm đa chức năng thương mại - văn hóa Hà Nội - Mát-xcơ-va và các tổ hợp công - nông nghiệp thuộc Tập đoàn TH TrueMilk. Trong đó, các dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa trị giá hơn 2 tỷ USD do Công ty TH TrueMilk đầu tư tại Mát-xcơ-va và Ca-lu-ga đã trở thành điểm sáng trong quan hệ đầu tư Việt Nam - Nga. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư Nga cũng mong muốn tăng cường hợp tác đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam. Đây được kỳ vọng là hướng đi mới giúp tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Nga vào Việt Nam. Theo đó, mô hình hợp tác sẽ được triển khai là sử dụng công nghệ, kỹ thuật, giống của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm bảo đảm chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Việt Nam và Ca-dắc-xtan thành lập các doanh nghiệp liên doanh, đầu tư xây dựng nhà máy tại thị trường của nhau, điển hình như nhà máy sản xuất mì sợi và các sản phẩm từ bột của Công ty Mareven Food Holdings với 100% vốn Việt Nam đang hoạt động rất thành công tại Ca-dắc-xtan, 80% sản phẩm của công ty này đã được xuất khẩu sang các nước.
Đối với Bê-la-rút, hiện nay Bê-la-rút có ba dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đạt 16,25 triệu USD. Việt Nam có một dự án đầu tư sang Bê-la-rút vào lĩnh vực bán buôn, bán lẻ của Công ty Thương mại nước ngoài IP Hapaco làm chủ đầu tư, theo hình thức 100% vốn FDI với quy mô đạt 1,6 triệu USD. Tháng 9-2019, Nhà máy ô tô tải Maz Asia với công suất 3.000 sản phẩm/năm liên doanh giữa Việt Nam và Bê-la-rút tại tỉnh Hưng Yên đã được khai trương. Các bước triển khai liên doanh sản xuất các sản phẩm sữa tại tỉnh này cũng đã được ký kết với định hướng lâu dài vươn tới thị trường các nước ASEAN, góp phần mang lại lợi ích cho cả hai bên.
Có thể thấy, dù đại dịch COVID-19 khiến trao đổi hàng hóa gặp khó khăn, song kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và EAEU vẫn đạt nhiều kết quả tích cực. Lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EAEU đã và đang mở ra nhiều xu hướng hợp tác mới, như nông nghiệp, chăn nuôi bò sữa, chế biến sữa, hình thành chuỗi giá trị mới trong thủy sản, hợp tác trong lĩnh vực công nghệ cao và tin học.
Những thuận lợi và khó khăn khi triển khai Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu
Với những kết quả đã ghi nhận được sau khi FTA VN - EAEU chính thức có hiệu lực, những thuận lợi do Hiệp định mang lại có thể kể đến như:
Một là, FTA VN - EAEU có ý nghĩa chiến lược, tạo khuôn khổ pháp lý và điều kiện thuận lợi để phát triển quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và EAEU nói chung cũng như với từng nước thành viên nói riêng. Hiệp định này đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của Việt Nam.
Hai là, EAEU là một khu vực kinh tế có tốc độ phát triển tốt, một thị trường chung rộng lớn của năm nước thành viên, với dân số khoảng 183 triệu người (năm 2018); tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 1.900 tỷ USD tính đến cuối năm 2018 và tăng gần 1% trong ba tháng đầu năm 2019(7). Mặc dù EAEU mới được thành lập năm 2015 nhưng đây là một khối liên minh đầy tiềm năng phát triển. Trong tương lai, EAEU có nhiều triển vọng mở rộng, bổ sung một số nước từ khối Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Điều này sẽ là một lợi thế cho các nước đã ký kết FTA với EAEU như Việt Nam.
Ba là, các nước EAEU hiện nay đang tích cực thúc đẩy mở rộng quan hệ thương mại, đầu tư với Cộng đồng ASEAN nhằm tăng cường quan hệ với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong khi đó, Việt Nam cũng đang tích cực phát triển các chuỗi cung ứng sản xuất hàng hóa và tiêu dùng trong khu vực này, vì vậy, tăng cường các hoạt động kinh tế, thương mại với Việt Nam theo chiều sâu sẽ là tiền đề để các nhà sản xuất và cung ứng sản phẩm của các nước EAEU có cơ hội tham gia các dây chuyền cung ứng sản phẩm tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Bốn là, cơ cấu sản phẩm giao dịch giữa Việt Nam và EAEU mang tính bổ sung cho nhau chứ không cạnh tranh trực tiếp, nên những tác động bất lợi mang tính truyền thống của việc mở cửa thị trường Việt Nam cho đối tác thông qua FTA được giảm nhiều.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nêu trên, vẫn còn một số khó khăn khi triển khai FTA VN - EAEU.
Thứ nhất, mặc dù đã có bước phát triển tốt đẹp nhưng mức độ tận dụng ưu đãi từ FTA VN - EAEU còn thấp, đặc biệt là tỷ lệ sử dụng Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu EAV (C/O/EAV).
Thứ hai, Việt Nam hiện là đối tác FTA đầu tiên của EAEU, điều này sẽ giúp hàng hóa Việt Nam có lợi thế đặc biệt hơn. Tuy nhiên, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, các doanh nghiệp Việt Nam cũng gặp không ít thách thức, đặc biệt trong lĩnh vực nông, thủy sản. Thách thức chủ yếu do yêu cầu về TBT (biện pháp hàng rào kỹ thuật trong thương mại), SPS (biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động, thực vật). Bên cạnh đó, quy trình, thủ tục nhập khẩu tương đối phức tạp và không rõ ràng, không nhất quán ngay trong bản thân nội khối EAEU. Theo quy định của EAEU, doanh nghiệp được cơ quan quản lý nhà nước xác nhận đủ điều kiện xuất khẩu thì phía EAEU sẽ chấp nhận doanh nghiệp đó. Nhưng thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa được chấp nhận vì phía EAEU vẫn chưa tin tưởng vào hệ thống kiểm tra, kiểm dịch của Việt Nam.
Thứ ba, các rào cản khác có thể kể đến như khi giao dịch với các đối tác trong EAEU, chủ yếu sử dụng đồng Rúp và ngôn ngữ tiếng Nga, cơ chế thanh toán chưa thuận tiện...
Thứ tư, kim ngạch thương mại, đầu tư giữa Việt Nam với các nước EAEU còn quá thấp so với tiềm năng và so với nhiều đối tác khác của Việt Nam. Theo các chuyên gia kinh tế, các hạn ngạch xuất khẩu được hưởng mức ưu đãi thuế quan của EAEU không rơi vào những sản phẩm vốn là chủ lực của Việt Nam.
Giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu
Một là, các bộ, ban, ngành có liên quan cần tiếp tục đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp, thông qua các cơ chế Ủy ban hỗn hợp, Ủy ban liên Chính phủ..., để tiếp tục hỗ trợ, tháo gỡ các rào cản phi thuế quan, cụ thể là hợp tác nhằm điện tử hóa các thủ tục hành chính và hải quan; tháo gỡ những vướng mắc trong vấn đề chứng nhận xuất xứ, đàm phán công nhận lẫn nhau trong lĩnh vực nông nghiệp; thiết lập các khung khổ pháp lý thuận lợi; tăng cường tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối giao thương cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam - EAEU; nghiên cứu triển khai thực hiện các biện pháp, giải pháp nhằm tăng cường hợp tác, thúc đẩy thương mại song phương giữa Việt Nam và EAEU, tận dụng tối đa các lợi thế từ hiệp định mang lại.
Hai là, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực đầu tư, bao gồm cả đầu tư của Việt Nam vào EAEU và của EAEU vào Việt Nam. Để thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực này, cần phải xác định lại các ưu tiên đầu tư của cả hai bên mà mỗi bên đều có lợi thế.
Ba là, đẩy mạnh vai trò của hệ thống các đại sứ quán, thương vụ Việt Nam tại các nước và cơ quan đại diện thương mại của các nước tại Việt Nam trong công tác cung cấp thông tin thị trường cập nhật cho cộng đồng doanh nghiệp, giúp gia tăng các cơ hội xuất, nhập khẩu hàng hóa, mở rộng và đa dạng hóa thị trường, mặt hàng xuất khẩu. Đây chính là cầu nối quan trọng cho xúc tiến thương mại, quảng bá và giới thiệu hình ảnh và mặt hàng của Việt Nam ra thế giới, đặc biệt là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, như thủy sản, rau quả tươi, hàng điện tử, linh kiện điện tử, dệt may, đồ gỗ và da giày.
Bốn là, đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực du lịch, khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo. Đây là những lĩnh vực vừa là cầu nối, vừa có tác dụng hỗ trợ lớn cho việc tăng cường hợp tác kinh tế giữa hai nước. Tăng cường hợp tác đào tạo không chỉ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam mà còn là nguồn cung nhân lực cho các liên doanh, các doanh nghiệp.
Năm là, hai bên cần phát triển kết cấu hạ tầng, cũng như dịch vụ hậu cần, gồm cảng trung chuyển và kho lạnh. Dù các nhà cung cấp từ châu Âu, châu Mỹ, châu Đại Dương đến Việt Nam sớm hơn so với Nga và các nước EAEU, song quan hệ hữu nghị, hợp tác và sự giao lưu văn hóa lâu đời giữa các nước EAEU và Việt Nam đã mang lại tác động tích cực đến triển vọng tăng trưởng thương mại. Nói cách khác, cần khai thông tuyến đường vận tải biển giữa Việt Nam và EAEU để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất, nhập khẩu và đầu tư giữa hai bên. Các bên phải chọn con đường hiệu quả nhất để triển khai và phát triển thành tuyến đường thường xuyên.
Sáu là, để tăng cường sản lượng xuất khẩu sang các thị trường khu vực Á - Âu, các doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược, xác định các sản phẩm có lợi thế, có nhu cầu tại thị trường EAEU, từ đó tăng cường đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp Việt Nam cũng cần nắm bắt đầy đủ lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu liên quan đến sản xuất, kinh doanh, chủ động xây dựng chiến lược sản xuất, kinh doanh phù hợp trong giai đoạn ngắn hạn và dài hạn, tận dụng triệt để cơ hội và sẵn sàng cạnh tranh. Doanh nghiệp Việt Nam cần nắm bắt thông tin về FTA VN - EAEU để tìm hiểu, tận dụng những ưu đãi nhằm thúc đẩy trao đổi kinh doanh; đồng thời, tích cực tham gia các triển lãm, hội chợ nhằm kết nối đầu tư.
Bảy là, hiện Việt Nam và các nước EAEU nói chung, Nga nói riêng đang có nhu cầu lớn về hàng nông sản của nhau, do đó, hai bên cần phát triển quan hệ thương mại theo lĩnh vực này, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp được xuất khẩu sang thị trường hai bên.
Tám là, để giải quyết khó khăn trong giao dịch thương mại, Việt Nam và các nước EAEU nói chung, Nga nói riêng đã thành lập cơ chế thanh toán bằng đồng nội tệ (VND/Rúp). Các ngân hàng thương mại hai bên cần đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin đến doanh nghiệp và khách hàng về lợi ích của việc thanh toán nội tệ nhằm mục tiêu hỗ trợ thanh khoản cho thanh toán bằng đồng Rúp và VND.
Có thể thấy, với dân số trên 180 triệu người, chiếm gần 20% diện tích đất liền với cơ cấu kinh tế mang tính bổ sung cho Việt Nam, EAEU là thị trường tiềm năng cho xuất khẩu hàng hóa nông thủy sản, dệt may, giày dép... của Việt Nam, cũng là nguồn cung cấp máy móc thiết bị, hóa chất, các sản phẩm công nghệ sinh học, năng lượng với giá thành thấp, chất lượng cao cho Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chỉ đứng thứ 24 trong số các nước nhập khẩu từ EAEU và đứng thứ 11 trong số các nước xuất khẩu sang EAEU. Cả Việt Nam và EAEU đều coi trọng và mong muốn thúc đẩy mối quan hệ giữa hai bên. Các nước EAEU đều nhận định Việt Nam là đối tác quan trọng cả về khía cạnh chính trị lẫn kinh tế. Do đó, thúc đẩy quan hệ hợp tác với Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nước EAEU thâm nhập vào thị trường Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) rộng lớn. Đối với Việt Nam, việc khôi phục và phát triển các thị trường truyền thống ở Liên minh kinh tế Á - Âu sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước SNG và Đông Âu. Vì vậy, hai bên cần nỗ lực hơn nữa để khắc phục tồn tại, tháo gỡ khó khăn nhằm tận dụng triệt để những ưu đãi mà FTA VN - EAEU mang lại và khi đó thương mại, đầu tư sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới./.
------------------
(1) Tùng Bảo: “Tranh thủ thuận lợi FTA giữa Việt Nam - EAEU”, https://nhandan.com.vn/tin-tuc-kinh-te/tranh-thu-thuan-loi-fta-giua-viet-nam-eaeu-275260, ngày 15-10-2016
(2), (3), (4) Hoàng Hoa: “Nhìn lại hai năm thực hiện hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu”, https://vn.sputniknews.com/vietnam_russia/201810096350254-viet-nam-thuong-mai-tu-do-lien-minh-kinh-te-a-au/, ngày 9-10-2018
(5), (6) Trung Hưng: “Thương mại Việt Nam - khu vực Á - Âu tăng trưởng tích cực”, https://nhandan.com.vn/nhan-dinh/thuong-mai-viet-nam-khu-vuc-a-au-tang-truong-tich-cuc-627648/, ngày 10-12-2020
(7) Phương Thảo: “VN - EAEU FTA sau 3 năm: Niềm tin vào những cơ hội mới”, https://moit.gov.vn/CmsView-EcoIT-portlet/html/print_cms.jsp?articleId=17368, ngày 13-12-2019
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển