Giải pháp trọng tâm để phát triển Đại học Đà Nẵng thành đại học quốc gia, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển vùng Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
TCCS - Xây dựng Đại học Đà Nẵng thành Đại học Quốc gia là yêu cầu cấp thiết trong nhiệm vụ phát kiển kinh tế - xã hội đối với vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ theo Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 3-11-2022, của Bộ Chính trị, về “Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết số 26-NQ/TW). Để thực hiện mục tiêu này, trong thời gian tới, Đại học Đà Nẵng tiếp tục thực hiện tốt nhiều giải pháp trọng tâm, đột phá, đóng góp ngày càng lớn hơn vào sự phát triển nhanh, bền vững của vùng.
Những kết quả đạt được trong thời gian qua
Đại học Đà Nẵng là đại học vùng trọng điểm quốc gia được thành lập theo Nghị định số 32/CP, ngày 4-4-1994, của Chính phủ với nhiệm vụ đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Sau 30 năm xây dựng và phát triển, Đại học Đà Nẵng đã đạt được những kết quả quan trọng:
Thứ nhất, đào tạo, cung ứng hàng chục vạn cán bộ, chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực, ngành, nghề then chốt, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và toàn quốc.
Thứ hai, dần hoàn thiện mô hình, cơ chế tổ chức và hoạt động của đại học vùng, phát huy những lợi thế từ sử dụng nguồn lực chung, cộng hưởng nên sức mạnh hệ thống(1).
Thứ ba, có quy mô đào tạo lớn với chất lượng đào tạo đạt chuẩn quốc gia, quốc tế. Hiện nay, Đại học Đà Nẵng có khoảng 55.000 sinh viên, học viên chính quy, 600 - 800 lưu học sinh; năm 1999 tiên phong mở các chương trình đào tạo chất lượng cao; năm 2006 đào tạo theo hình thức học chế tín chỉ; triển khai nhiều phương pháp dạy - học tích cực(2); các trường đại học thành viên đạt chuẩn chất lượng giáo dục quốc gia(3).
Đối với vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, Đại học Đà Nẵng đã đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho nhiều ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư(4).
Thứ tư, có tiềm lực, chính sách thúc đẩy khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nhờ đó, tỷ lệ công bố quốc tế tăng nhanh, là đại học thuộc tốp 7 đại học ở Việt Nam về đổi mới sáng tạo; Tạp chí Khoa học và Công nghệ của Đại học Đà Nẵng được đưa vào hệ thống trích dẫn Đông Nam Á (ACI), kết nối với hệ thống trích dẫn quốc gia (NCI); thực hiện nhiều đề tài khoa học - công nghệ cấp quốc gia, bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trên cả nước.
Thứ năm, có truyền thống và mạng lưới hợp tác quốc tế sâu rộng, cơ sở vật chất được đầu tư tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ, theo hướng hiện đại(5). Đặc biệt, Đại học Đà Nẵng được Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương quan tâm, ủng hộ đầu tư “Dự án Xây dựng Khu Đô thị Đại học Đà Nẵng” từ nguồn vốn dự phòng đầu tư công trung hạn (giai đoạn 2016 - 2020 để giải phóng mặt bằng), vốn ODA (ký Hiệp định vay 100 triệu USD từ Ngân hàng Thế giới cùng Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) và là 1 trong 3 đại học hàng đầu Việt Nam được USAID (Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ) và các đối tác Hoa Kỳ tài trợ Dự án Hợp tác đổi mới giáo dục đại học (Dự án PHER) giai đoạn 2022 - 2026)...
Nhờ lợi thế được đóng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng - nơi có vị trí chiến lược là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á, hạt nhân của chuỗi đô thị và cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung - Tây Nguyên, Đại học Đà Nẵng có điều kiện thuận lợi để thu hút, quy tụ cán bộ, giảng viên, các nhà khoa học, chuyên gia và học sinh giỏi về nghiên cứu, học tập, đóng góp cho sự phát triển của vùng Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ và cả nước.
Hạn chế, yêu cầu phát triển hệ thống giáo dục đại học vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ
Đối với vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, hiện nay, có rất nhiều trường đại học, cao đẳng, nhưng phần lớn có quy mô nhỏ, lẻ, đơn ngành, đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu còn hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng nên không còn phù hợp với xu thế đòi hỏi tri thức, công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực.
Thách thức từ đại dịch COVID-19 cho thấy những điểm yếu khi giáo dục đại học của vùng thiếu khả năng chống chịu rủi ro; một số ngành đào tạo thiếu linh hoạt, hiệu quả, chưa thích ứng với yêu cầu thay đổi phương thức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; chưa hấp dẫn, thu hút nhà đầu tư, dự án lớn; nguy cơ “chảy máu chất xám”, khó giữ chân người tài.
Đối với Đại học Đà Nẵng, thách thức lớn là thiếu nguồn lực để đầu tư phát triển, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo tương xứng với yêu cầu, sứ mệnh mới; tính tự chủ còn giới hạn trong khuôn khổ của đại học vùng nên khó đáp ứng đổi mới ngành, nghề, phương thức đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động thay đổi nhanh chóng; chưa hài hòa giữa đào tạo khoa học cơ bản, hàn lâm với các ngành có truyền thống, thế mạnh khác; quy mô đào tạo sau đại học, đào tạo quốc tế chưa cao; thiếu các chính sách thu hút, đãi ngộ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chưa có nhiều dự án, sản phẩm có tầm ảnh hưởng, ứng dụng sâu rộng, hiệu quả; chưa có đủ nguồn lực để đầu tư bảo đảm cơ sở vật chất đồng bộ, hiện đại; chưa có cơ chế tài chính được giao quyền tự chủ đủ mạnh, cơ cấu nguồn thu chưa cân đối, còn phụ thuộc chủ yếu vào học phí (theo Nghị quyết số 165/NQ-CP, ngày 20-12-2022, của Chính phủ, “Về học phí đối với cơ sở giáo dục và đào tạo công lập năm học 2022 - 2023”); lộ trình tự chủ đại học của các trường đại học thành viên, đơn vị đào tạo trực thuộc còn khó khăn, bất cập, thiếu tính bền vững... Những hạn chế này làm giảm năng lực cạnh tranh của Đại học Đà Nẵng trong thu hút học sinh giỏi từ các vùng khác đến học tập, nghiên cứu.
Nghị quyết số 26-NQ/TW đã chỉ rõ 1 trong 7 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đó là: “Tạo chuyển biến về chất lượng trong giáo dục và đào tạo; đổi mới giáo dục nghề nghiệp gắn với thế mạnh và định hướng phát triển vùng, coi đây là một trong những khâu đột phá cho phát triển vùng”. Chương trình Hành động số 01-CTr/TU thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XXII, gắn với thực hiện các đề án, chương trình thực hiện Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 10-12-2020, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” cũng nêu rõ: “Xây dựng Đề án và kiến nghị Trung ương thành lập Đại học Quốc gia Đà Nẵng trên cơ sở sắp xếp và nâng cấp Đại học Đà Nẵng và một số trường đại học trên địa bàn thành phố và địa phương lân cận”.
Cùng với đó là định hướng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời gian đến đã được Chương trình Hành động số 01-CTr/TU của Thành ủy Đà Nẵng đặt ra, trong đó có vai trò quan trọng của Đại học Đà Nẵng với truyền thống, vị thế và tiềm lực là Đại học Vùng trọng điểm Quốc gia đóng trên địa bàn, đó là: “Phối hợp quy hoạch, điều chỉnh định hướng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực của các trường đại học trên địa bàn theo 2 hướng: Đại học nghiên cứu - đổi mới sáng tạo; Đại học theo định hướng ứng dụng nghề nghiệp”.
Vì vậy, xây dựng Đại học Đà Nẵng thành Đại học Quốc gia không phải để thay đổi danh xưng, mà là nhằm đổi mới căn bản, kiến tạo cơ chế, chính sách, thiết lập mô hình quản trị đại học mới với tính tự chủ cao, được đầu tư nguồn lực thích hợp; là hạt nhân quy tụ các cơ sở giáo dục đại học khác trong vùng thành cụm đại học mạnh, bảo đảm tính chủ động trong cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng và khu vực miền Trung - Tây Nguyên trong mối tương quan với các trục kinh tế lớn ở hai đầu đất nước.
Giải pháp trọng tâm để phát triển Đại học Đà Nẵng thành Đại học Quốc gia
Thứ nhất, hoàn thiện quy hoạch hệ thống, phát triển đội ngũ trình độ cao
Rà soát, quy hoạch lại mạng lưới các trường đại học thành viên, đơn vị thuộc, trực thuộc phù hợp với chiến lược phát triển Đại học Đà Nẵng thành Đại học Quốc gia, trong đó sắp xếp, thành lập mới một số trường, khoa, viện thuộc các lĩnh vực khoa học cơ bản (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn), từ đó thành lập các trường đại học thành viên(6). Đây là một trong những yếu tố căn bản để Đại học Quốc gia có nền tảng năng lực đào tạo, nghiên cứu khoa học hàn lâm, phát triển công nghệ nguồn và bảo đảm cho sự phát triển bền vững.
Nâng cao tiềm lực đội ngũ lãnh đạo, quản lý, giảng viên, nghiên cứu viên và các nhà khoa học trình độ cao. Điều chỉnh cơ cấu giảng viên/tổng số cán bộ, viên chức đạt 65%; tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ đạt trên 55% (các trường đại học thành viên định hướng đại học nghiên cứu đạt trên 70%), tăng tỷ lệ giáo sư, phó giáo sư/tổng số giảng viên (phấn đấu mỗi khoa có ít nhất 1 giáo sư, mỗi bộ môn có ít nhất 1 phó giáo sư, 100% giảng viên dạy lý thuyết có trình độ tiến sĩ). Có chính sách nổi trội, thu hút, đãi ngộ để giữ chân các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; tiếp tục tìm nguồn học bổng, tuyển chọn cán bộ, giảng viên đi đào tạo ở nước ngoài.
Thứ hai, nâng cao năng lực, vai trò trung tâm trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Để thể hiện vai trò trung tâm trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, Đại học Đà Nẵng cần thể hiện vai trò chủ lực, trước hết đối với thành phố Đà Nẵng bằng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo sức hút, lan tỏa mạnh mẽ để thực sự là trung tâm kinh tế - xã hội, cực tăng trưởng của vùng như Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-01-2019, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao cho các đô thị - công nghiệp lớn tại các tỉnh, thành phố, như Đà Nẵng, Khánh Hoà, Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi... đòi hỏi cơ cấu, trình độ có sự khác biệt, thậm chí phải vượt trội so với các địa phương khác.
Dự báo cung - cầu nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với quy hoạch, chiến lược phát triển vùng và quốc gia. Tập trung nguồn lực, huy động doanh nghiệp vào cuộc để tiên phong mở các ngành đào tạo tiên tiến (trí tuệ nhân tạo (AI), robot, vật liệu/năng lượng mới, kỹ thuật số, công nghệ sinh học, logistics, hàng không/cảng biển...), đem lại giá trị gia tăng cao (công nghệ lõi, công nghệ nguồn, công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ), tham gia sâu vào mạng sản xuất và chuỗi cung ứng toàn cầu, phục vụ kinh tế biển, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, chuyển đổi số, du lịch, tài chính, ngân hàng, logistics... mà không phải trường đại học nào cũng đủ năng lực, kinh nghiệm đào tạo.
Khi phát triển thành Đại học Quốc gia, Đại học Đà Nẵng sẽ thí điểm đào tạo một số ngành, nghề mới một cách linh hoạt trên cơ sở nắm bắt nhu cầu xã hội. Đây là yếu tố rất quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của nhà trường trong bối cảnh ngành, nghề đang thay đổi rất nhanh chóng. Nếu thế kỷ trước, người lao động có thể làm một ngành trong phần lớn cuộc đời thì nay, một ngành có thể có nhu cầu trong một thời gian ngắn rồi thoái trào, thay vào đó là sự xuất hiện của các ngành, nghề mới khác. Do đó, nếu Đại học Đà Nẵng không có tính tự chủ và năng lực để xác lập, đào tạo những ngành, nghề “không truyền thống” thì năng lực cạnh tranh của trường sẽ giảm, dẫn đến sinh viên ra trường không thể tìm được việc làm đúng ngành, nghề và kỹ năng đã được đào tạo.
Tăng quy mô đào tạo sau đại học để đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, có năng lực đổi mới sáng tạo, nhất là đối với các trường đại học thành viên theo định hướng nghiên cứu; giữ ổn định quy mô đào tạo đại học để tập trung nâng cao chất lượng; ưu tiên phát triển các chương trình tiên tiến, chất lượng cao, chương trình đào tạo bằng tiếng Anh (sử dụng chung giáo trình, chương trình đào tạo từ các trường đại học uy tín trên thế giới sau khi đã cập nhật bối cảnh trong nước); tăng tính liên thông, linh hoạt giữa đào tạo đại học, sau đại học để thu hút “đầu vào” cho đào tạo sau đại học; phát triển đào tạo tinh hoa, đào tạo quốc tế (tăng nguồn lưu học sinh, ưu tiên từ khu vực ASEAN có lợi thế về địa lý và văn hóa tương đồng).
Để tạo nền vững chắc cho khoa học cơ bản và các ngành kỹ thuật - công nghệ, Đại học Đà Nẵng tiếp tục tổ chức nhiều hoạt động hướng nghiệp, truyền cảm hứng sáng tạo, thúc đẩy giáo dục STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học); tăng cường thời lượng thực hành, thực tập cho sinh viên trải nghiệm, phát triển kỹ năng, nhất là tin học, ngoại ngữ để bắt kịp cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nâng cao chất lượng đào tạo từ kinh nghiệm, thế mạnh bằng việc chú trọng công tác bảo đảm chất lượng, kiểm định cơ sở giáo dục và các chương trình đào tạo theo chuẩn quốc gia, quốc tế (AUN - QA, ABET...), hướng đến bằng cấp của Đại học Đà Nẵng bảo đảm khung trình độ nhân lực quốc gia, được công nhận, tiệm cận các nước tiên tiến.
Thứ ba, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, hợp tác với địa phương, doanh nghiệp
Theo xu thế phát triển của nhiều đại học lớn trên thế giới, Đại học Đà Nẵng định hướng phát triển chung theo đại học đổi mới sáng tạo, trong đó có các trường đại học thành viên theo định hướng đại học nghiên cứu (Trường Đại học Bách khoa, Trường Đại học Kinh tế), các trường đại học thành viên theo định hướng ứng dụng (Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt - Hàn), các trường nghiên cứu khoa học tự nhiên và xã hội nhân văn (Trường Đại học Sư phạm, Trường Đại học Ngoại ngữ). Phát triển hài hòa, phù hợp giữa nghiên cứu cơ bản, hàn lâm với ứng dụng. Tăng cường công bố quốc tế trên các tạp chí uy tín (WoS/Scopus); phát triển các dự án, sản phẩm có địa chỉ ứng dụng trong các chương trình hợp tác với các địa phương, doanh nghiệp.
Để thích nghi với nền kinh tế số, Đại học Đà Nẵng sẽ phát triển Viện Nghiên cứu phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) và sản phẩm “thông minh”. Giai đoạn đầu, viện sẽ cung cấp các giải pháp công nghệ tiên tiến để thu thập, xây dựng cơ sở dữ liệu lớn (Big Data) cho thành phố Đà Nẵng, từ đó tiếp tục phát triển các giải pháp khai thác, sử dụng Big Data để xây dựng thành phố “thông minh”. Ngoài ra, viện còn thực hiện chức năng cung cấp các chương trình đào tạo phát triển năng lực kỹ thuật số và sáng tạo sản phẩm “thông minh” cho sinh viên các ngành học khác của Đại học Đà Nẵng.
Hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển khoa học - công nghệ, trong đó nâng cao năng lực, hiệu quả mạng lưới các viện, trung tâm nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao; hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh (có chuyên gia, nhà khoa học uy tín dẫn dắt, có năng lực nghiên cứu liên ngành để thực hiện các nhiệm vụ khoa học - công nghệ tầm khu vực và quốc gia); đầu tư các phòng thí nghiệm đồng bộ, hiện đại như dự án Technopol (triển khai từ nguồn vốn ODA trong dự án xây dựng Khu đô thị Đại học Đà Nẵng); chuyển đổi mô hình, cơ chế theo hướng tăng tính tự chủ (đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ nhóm 2 theo Nghị định số 60/NĐ-CP, ngày 21-6-2021, của Chính phủ, “Về quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập”) để tăng mức đãi ngộ, chi trả, thu hút các nhà khoa học, chuyên gia hàng đầu.
Tích cực tham gia nghiên cứu, xây dựng, phản biện và hoàn thiện chiến lược, chính sách, tham vấn phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các dự án trọng điểm của vùng và quốc gia. Tăng cường hợp tác với các đại học trong và ngoài nước thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ khoa học - công nghệ lớn theo đơn đặt hàng, đấu thầu, giao nhiệm vụ của Trung ương, các tỉnh, thành phố và các tập đoàn, doanh nghiệp. Tổ chức các sự kiện, hội thảo khoa học uy tín nhằm thu hút các nhà khoa học, quản lý trong nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn.
Thứ tư, tiên phong hội nhập quốc tế, đầu tư cơ sở vật chất đồng bộ, hiện đại
Hoàn thiện, nâng tầm chiến lược hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả từ kinh nghiệm, truyền thống và thế mạnh của Đại học Đà Nẵng. Tiếp tục chủ động, tích cực tham gia các mạng lưới đối tác, tổ chức, hiệp hội và các dự án quốc tế; tăng cường trao đổi giảng viên, chuyên gia, nhà khoa học và sinh viên; đẩy mạnh, nâng cao chất lượng hợp tác, liên kết đào tạo quốc tế (công nhận tín chỉ, chuyển tiếp, đồng cấp bằng).
Phát triển các viện nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo quốc tế trên cơ sở hợp tác song phương với các trường đại học trên thế giới(7), hợp tác với liên minh các trường đại học trong khu vực và trên thế giới để phát triển các chương trình nghiên cứu chung, tạo điều kiện cho sinh viên được học các chương trình có chất lượng, được công nhận quốc tế.
Cải tiến bộ máy tổ chức, nhân sự để gắn kết các hoạt động kế hoạch, tài chính và đầu tư; tìm kiếm các dự án gắn với nâng cao hiệu quả đầu tư, quản lý, khai thác và sử dụng cơ sở vật chất; huy động các nguồn lực (đầu tư của nhà nước, dịch vụ, xã hội hóa, nguồn lực từ hợp tác quốc tế...) để quy hoạch, đầu tư hiệu quả, đồng bộ, hiện đại, có lộ trình, trọng tâm, trọng điểm đối với các dự án phát triển cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học; thúc đẩy chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số, đào tạo trực tuyến, từ xa...
Đẩy nhanh tiến độ, bảo đảm chất lượng dự án Xây dựng Khu Đô thị Đại học Đà Nẵng. Trong giai đoạn 2022 - 2025 phải hoàn thành giải phóng mặt bằng (tại thành phố Đà Nẵng và một phần diện tích phía bắc của tỉnh Quảng Nam) theo quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Nghiên cứu các giải pháp, phương án huy động vốn xã hội hóa, như đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (PPP), xây dựng, vận hành, chuyển giao (BOT), xây dựng, chuyển giao (BT), cân nhắc chuyển đổi nhà, đất trong nội thành; tham vấn, vận dụng phù hợp, sáng tạo kinh nghiệm quốc tế để có nguồn đầu tư; xây dựng hạ tầng kỹ thuật và các công trình cấp thiết, tạo diện mạo mới xứng tầm; xây dựng tiền đề cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu phát triển thành Đại học Quốc gia.
Thứ năm, hoàn thiện cơ sở pháp lý, cơ chế tài chính, đổi mới quản trị và tự chủ đại học
Tập trung hoàn thiện, trình Chính phủ và các cấp có thẩm quyền phê duyệt; tranh thủ sự ủng hộ của các địa phương, doanh nghiệp và cộng đồng; khẩn trương xúc tiến các hoạt động quan trọng, như Đề án Phát triển Đại học Đà Nẵng thành Đại học Quốc gia, chiến lược phát triển Đại học Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; triển khai hiệu quả Dự án PHER cùng Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là cơ hội để tiếp tục hoàn thiện, đổi mới hệ thống quản trị và tự chủ đại học phù hợp với chiến lược, mô hình Đại học Quốc gia. Hoàn thiện bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả để vừa phát huy thế mạnh, bản sắc của các trường, đơn vị thành viên, vừa tạo nên sức mạnh nhờ cộng hưởng, dùng chung nguồn lực trong hệ thống. Đây là kinh nghiệm quốc tế trong cạnh tranh, hội nhập nhờ phát huy lợi thế của đại học có quy mô, tiềm lực lớn./.
-------------------------------
(1) Đại học Đà Nẵng đã xây dựng được đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhà khoa học mạnh với hơn 2.500 cán bộ, giảng viên; tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ đạt 45% (bình quân chung của cả nước là 30%, riêng Trường Đại học Bách khoa đạt 73%). Mỗi năm, Đại học Đà Nẵng có thêm 60 đến 100 tiến sĩ. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phần lớn trong độ tuổi trẻ, năng động, giàu sức sáng tạo, phát huy truyền thống và khối đoàn kết, thống nhất.
(2) Học theo Dự án, CIDO, học từ trải nghiệm thực tế, học kỳ doanh nghiệp...
(3) Trường Đại học Sư phạm là trường đại học đầu tiên của cả nước đạt chuẩn quốc gia từ tháng 4-2016, Trường Đại học Bách khoa đạt chuẩn quốc tế (HCERES châu Âu từ năm 2017); tốp 3 đại học Việt Nam có nhiều chương trình đào tạo kiểm định, đạt chuẩn quốc tế với 34 chương trình.
(4) Sinh viên, học viên tốt nghiệp Đại học Đà Nẵng đã làm việc cho các doanh nghiệp, tập đoàn, như Khu Kinh tế Dung Quất, Nhà máy lọc hoá dầu Bình Sơn, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tổng Công ty Điện lực miền Trung, Tập đoàn THACO Trường Hải...
(5) Đại học Đà Nẵng có quan hệ hợp tác với hơn 200 tổ chức, trường đại học, doanh nghiệp (Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a...); thành viên của nhiều tổ chức khoa học giáo dục uy tín (AUF, ASEA - UNINET, AUN, SEAMEO...); chủ trì, tham gia nhiều dự án quốc tế (Eramus+, USAID, MONTUS, HARMONY...); có kinh nghiệm 20 năm đào tạo lưu học sinh Lào.
(6) Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, phát triển, thành lập mới các trường đại học thành viên, như Trường Đại học Việt - Anh (trên cơ sở Viện Nghiên cứu và Đào tạo Việt - Anh để đáp ứng nhu cầu phát triển dịch vụ liên kết, đào tạo quốc tế); Trường Đại học Y - Dược (trên cơ sở Khoa Y - Dược và Trung tâm Y khoa); bổ sung quy hoạch các trường đại học thành viên các ngành then chốt khác, như Trường Đại học Luật, Trường Đại học Văn hóa - Du lịch; sắp xếp đưa vào quy hoạch một số trường đại học địa phương làm vệ tinh của Đại học Quốc gia như: Trường Đại học Quảng Nam, Trường Đại học Phạm Văn Đồng, Trường Đại học Kon Tum...; phát triển các viện nghiên cứu, trung tâm đổi mới sáng tạo, tài nguyên số, giáo dục quốc phòng - an ninh, khảo thí, điều hành đại học “thông minh”, nhà xuất bản, doanh nghiệp khoa học - công nghệ để nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo và tăng cường sứ mệnh vì cộng đồng.
(7) Như mô hình Viện Công nghệ quốc tế (DNIIT) - hợp tác giữa Đại học Đà Nẵng và Đại học Cote d’Azure của Pháp
Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng, phát triển con người và những gợi ý tham chiếu cho Việt Nam  (15/09/2023)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam