Phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng trong tiến trình chín mươi năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam
TCCS - Phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp không phải là phép cộng giản đơn các loại lực lượng, nguồn lực, mà là khoa học và nghệ thuật sử dụng sức mạnh của Đảng gắn với điều kiện cụ thể. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam 90 năm qua luôn gắn liền với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng, trong đó có phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp.
Sau khi xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng, phương pháp cách mạng đóng vai trò quyết định đến hiệu quả huy động, tập hợp lực lượng, phân phối nguồn lực, phối hợp các mặt trận, các lĩnh vực, khả năng tận dụng cơ hội, đẩy lùi các nguy cơ, thách thức. Phương pháp cách mạng đúng sẽ bảo đảm tối ưu hóa việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ, hiện thực hóa các mục tiêu cách mạng. Lãnh đạo cách mạng trong điều kiện phải đối mặt với các tình huống bất thường, phức tạp, càng phải đặc biệt coi trọng phương pháp lãnh đạo để đưa ra lựa chọn ưu tiên hợp lý, ứng phó có hiệu quả với các mối hiểm nguy, xoay chuyển tình thế, biến thách thức thành cơ hội.
Phương pháp cách mạng là cách thức để tổ chức thực hiện đường lối đạt hiệu quả, là sản phẩm tư duy của người lãnh đạo, nhưng luôn khởi phát từ yêu cầu khách quan, bị chế định bởi những điều kiện lịch sử - cụ thể. Thoát ly các điều kiện khách quan, xa rời mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược đã xác định sẽ khiến cho phương pháp cách mạng rơi vào chủ quan duy ý chí, thiếu tính sáng tạo, ít hoặc không mang lại hiệu quả trên thực tế. Sai lầm về mặt phương pháp cách mạng có thể gây tổn thất, đẩy lực lượng cách mạng vào thế khó khăn, bỏ lỡ cơ hội phát triển, thậm chí gặp thất bại tạm thời.
Rất nhiều phương pháp cách mạng đã được Đảng ta sử dụng có hiệu quả trong thực tiễn cách mạng; trong đó, phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp cần được tổng kết, nghiên cứu toàn diện, sâu sắc hơn.
Phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp xuất phát từ yêu cầu phải xem xét bất cứ sự vật, hiện tượng nào không chỉ nhìn vào một thành tố biệt lập, mà phải đặt nó trong phức hợp các mối quan hệ biện chứng. Phải từ bức tranh phức hợp đó mà thấy được điểm mạnh cần phát huy, điểm yếu cần bổ sung để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp hình thành còn xuất phát từ điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam luôn đứng trước những kẻ thù lớn mạnh hơn nhiều lần về sức mạnh vật chất - kỹ thuật, nhưng lại ở vào thế yếu về sức mạnh chính trị - tinh thần. Về phía chúng ta, ban đầu thường gặp điểm yếu về sức mạnh vật chất - kỹ thuật, nhưng lại có ưu thế về sức mạnh chính trị - tinh thần. Vì vậy, cách mạng chỉ có thể giành thắng lợi khi biết phát huy điểm mạnh, từng bước khắc phục điểm yếu của chính mình cũng như khai thác tối đa điểm yếu, khắc chế điểm mạnh của kẻ thù. Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều chứng tỏ, bất cứ cuộc đụng đầu nào, dù là chiến tranh thời biến loạn hoặc cạnh tranh thời hòa bình đều là những cuộc thử thách toàn diện cả sức mạnh kinh tế - vật chất và chính trị - tinh thần, cả lực lượng dân tộc và khả năng tập hợp lực lượng quốc tế, sức mạnh “cứng” và sức mạnh “mềm”. Chỉ trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp mới tạo nên được tính vượt trội của thực lực mà từng yếu tố riêng lẻ không thể có được.
Sức mạnh tổng hợp dựa vào phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần và sức mạnh vật chất - kỹ thuật
Trong chiến tranh cách mạng và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đó là kết hợp sức mạnh chính trị - tinh thần và sức mạnh vật chất - vũ khí. Trong mối quan hệ giữa sức mạnh chính trị - tinh thần và sức mạnh vật chất - vũ khí, Đảng ta xác định sức mạnh chính trị - tinh thần đóng vai trò quyết định, từ lựa chọn phương pháp, cách thức tiến hành đấu tranh đến khả năng sử dụng vũ khí, trang bị, kỹ thuật. Chính vì thế, ngay từ khi thành lập “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”, lãnh tụHồ Chí Minh đã nhấn mạnh “chính trị trọng hơn quân sự”, “tuyên truyền trọng hơn tác chiến”. Khi đụng đầu với những kẻ thù lớn mạnh hơn ta nhiều lần về sức mạnh vật chất - kỹ thuật - vũ khí trong thế kỷ XX, dân tộc ta đều giành chiến thắng, nhờ Đảng ta biết phát huy sức mạnh tổng hợp, làm cho sức mạnh chính trị - tinh thần và sức mạnh vật chất - vũ khí bổ sung cho nhau. Sức mạnh tổng hợp của cả yếu tố chính trị - tinh thần và vật chất - vũ khí được phát huy cũng làm cho điểm yếu của kẻ thù ngày càng bộc lộ, nhất là tính chất phi nghĩa của chiến tranh xâm lược, càng kéo dài cuộc chiến càng gặp bất lợi và sức mạnh vật chất - kỹ thuật cũng không phát huy được đầy đủ tác dụng của nó. Ngược lại, chúng ta phát động kháng chiến trường kỳ khiến cho động lực chính trị - tinh thần được nuôi dưỡng, phát huy cao độ, có thời gian khắc phục điểm yếu về vật chất - vũ khí, từng bước làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường, tiến lên giành thắng lợi quyết định, rồi giành thắng lợi hoàn toàn. Phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp tiếp tục được Đảng ta coi trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, khi xác định sức mạnh chính trị - tinh thần đóng vai trò quyết định. Dựa trên đường lối chính trị đúng đắn mới làm cho con người có hành động đúng đắn, sử dụng vũ khí đúng mục đích bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xác định chiến lược, chiến thuật phù hợp, thông minh, sáng tạo. Chỉ đứng trên nền quốc phòng hòa bình, tự vệ, nêu cao tính chính nghĩa của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, thì mới phát huy được đầy đủ những phẩm chất, năng lực của con người, nhất là hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam được chung đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Đồng thời, chúng ta cũng rất coi trọng vai trò của vũ khí - kỹ thuật, nhất là trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao, nhưng sử dụng đúng đắn và hiệu quả vũ khí, khí tài luôn cần đến những bộ óc thông minh cả về mặt chiến lược và chiến thuật, từ tạo ra khả năng răn đe cần thiết đến sẵn sàng đánh bại mọi hành động phiêu lưu xâm lược của các thế lực thù địch.
Trong xây dựng đất nước, đó là phát huy sức mạnh kinh tế - vật chất và sức mạnh văn hóa - tinh thần. Đứng trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi bắt tay xây dựng lại đất nước thời kỳ “hậu thực dân”, Đảng ta xác định phải tập trung sức phát triển kinh tế, nhằm đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa không có mục đích nào khác là nhằm phát triển lực lượng sản xuất, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, sản xuất của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội... Đồng thời với phát triển kinh tế, Đảng rất chú trọng chăm lo phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Phát triển kinh tế trở thành nhiệm vụ trung tâm không hẳn là giải pháp tình thế để khắc phục tình trạng thiếu hụt hàng hóa, khôi phục sản xuất bị suy giảm, mà sâu xa hơn chính là xuất phát từ vai trò nền tảng của kinh tế. Chỉ trên cơ sở duy trì và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mới có thể giải quyết được việc làm, thực hiện chính sách xã hội, nâng cao đời sống văn hóa - tinh thần tốt hơn cho nhân dân, có tiềm lực để tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Đành rằng, không phải cứ có tăng trưởng kinh tế là có công bằng xã hội, nâng cao đời sống văn hóa - tinh thần cho nhân dân, mà chúng tùy thuộc vào quan điểm chính trị đúng đắn, tiến bộ, nhân văn được xác lập nhất quán về giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế với chính trị, giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội. Trong khi chú trọng đến tăng trưởng kinh tế, Đảng hết sức quan tâm đến phân phối kết quả tăng trưởng để đầu tư cho nâng cao mức thụ hưởng văn hóa - tinh thần của nhân dân. Càng phát triển kinh tế thị trường càng phải phát huy vai trò của yếu tố văn hóa - tinh thần, không chỉ mang ý nghĩa phúc lợi xã hội, mà còn là động lực cho phát triển bền vững, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên phát huy nguồn lực văn hóa, nhất là chú trọng đổi mới sáng tạo, phát triển công nghiệp văn hóa, “vốn hóa” các giá trị tri thức. Chú trọng khơi thông các động lực văn hóa - tinh thần, như lòng yêu nước, khát vọng cống hiến, đức hy sinh, phẩm chất liêm chính, đề cao danh dự và phẩm giá con người,... để bổ sung và phát huy tốt hơn động lực kinh tế - vật chất. Trên bình diện quốc tế, nguồn lực văn hóa còn giúp tăng cường “sức mạnh mềm”, góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp của quốc gia dân tộc.
Sức mạnh tổng hợp dựa trên cơ sở phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế
Trong chiến tranh giải phóng hay sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bất cứ lực lượng chính trị nào muốn giành được thắng lợi đều phải phát huy tối đa cả sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế. Sức mạnh dân tộc được phát huy cao độ, tối đa, kể cả sức mạnh chính trị - tinh thần và sức mạnh kinh tế - vật chất, thì mới có thể tận dụng, phát huy tốt sức mạnh quốc tế. Sức mạnh quốc tế được sử dụng khôn khéo, phục vụ đúng mục tiêu, đường lối cách mạng thì mới phát huy được mặt thuận lợi, hạn chế các tác động bất lợi, nhất là giải quyết mối quan hệ giữa tranh thủ sự giúp đỡ bên ngoài với giữ vững độc lập, tự chủ.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng các đế quốc hùng mạnh nhất trong thế kỷ XX. Sức mạnh trong nước hình thành từ đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo; sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với khả năng huy động sức người, sức của ở mức cao nhất phục vụ cho đấu tranh cách mạng; sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, ý chí, tinh thần quyết chiến và quyết thắng vì độc lập, tự do của dân tộc, vì lương tâm và phẩm giá con người. Chính sức mạnh trong nước trở thành yếu tố quyết định tranh thủ có hiệu quả sức mạnh thời đại, sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của phong trào giải phóng dân tộc, của các lực lượng tiến bộ. Viện trợ về vật chất và ủng hộ về chính trị - tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa trở thành một điểm tựa, một nguồn sức mạnh quan trọng, góp phần giúp dân tộc ta giành chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ. Sự ủng hộ về chính trị - tinh thần của các đảng cộng sản và công nhân, của nhân loại tiến bộ, nhất là phong trào chống chiến tranh xâm lược lan rộng trên thế giới, đem “chiến tranh” vào trong lòng các nước mang quân xâm lược Việt Nam, khiến cho tính chất phi nghĩa của chiến tranh xâm lược được quốc tế hóa sâu sắc. Việt Nam trở thành trung tâm thời đại của cuộc đấu tranh giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa chính và tà, giữa tiến bộ và thoái bộ. Phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng đã giúp chuyển hóa sức mạnh quốc tế thành sức mạnh trong nước để góp phần chiến thắng kẻ thù xâm lược.
Trong lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, phương pháp kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại càng được Đảng ta sử dụng linh hoạt và sáng tạo. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, giải phóng sức sản xuất đã khơi dậy, phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp xã hội tham gia phát triển kinh tế vốn trước đó bị che khuất bởi cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Hệ thống chính trị ổn định, hệ thống thể chế, luật pháp, chính sách, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ,... từng bước đổi mới, hoàn thiện đã tạo môi trường không chỉ giải phóng sức sản xuất trong nước mà còn thu hút đầu tư nước ngoài, đưa nền kinh tế đất nước hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Bản sắc văn hóa dân tộc, lòng yêu nước, hệ giá trị con người Việt Nam, chất lượng nguồn nhân lực được coi trọng là những yếu tố quyết định để nâng cao nội lực đất nước, tạo “vốn đối ứng” để thu hút, hấp thu, khai thác có hiệu quả các nguồn lực quốc tế. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế đã giúp chúng ta phát huy tốt hơn nguồn lực bên ngoài, nhất là thu hút vốn đầu tư, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, nhân lực chất lượng cao... từ các nước phát triển. Nguồn lực bên ngoài giúp chúng ta bù đắp sự thiếu hụt của nguồn lực trong nước, phát huy tốt hơn nhiều nguồn lực đất nước còn ở dạng “tiềm năng”, chưa biến thành “động năng”, chưa được “vốn hóa”, như lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên... Trong hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta xác định nguồn lực trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng. Tính quyết định của nguồn lực trong nước thể hiện ở đường lối độc lập tự chủ được thể chế hóa thành luật pháp, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để dẫn dắt, sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài theo mục tiêu của chúng ta, tránh lệ thuộc vào một quốc gia (cả về vốn, thị trường...). Đổi mới luật pháp, chính sách phải đi trước để tạo lập môi trường thể chế cho doanh nghiệp nước ngoài yên tâm đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam; xác lập các hàng rào kỹ thuật để bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước; xác định lộ trình hợp lý cho hội nhập để doanh nghiệp trong nước có điều kiện đổi mới, cơ cấu lại, nâng cao sức cạnh tranh, tránh bị thua thiệt khi hội nhập. Xây dựng lực lượng doanh nghiệp trong nước, thuộc mọi thành phần kinh tế đủ mạnh, có sức cạnh tranh cao để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước, trên tinh thần độc lập, tự chủ, Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự và sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Sức mạnh bên trong chính là sức mạnh của bản chất chế độ chính trị - xã hội, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, lấy quân đội nhân dân và công an nhân dân làm nòng cốt; sức mạnh chính nghĩa của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, của nền quốc phòng tự vệ, kiên trì, kiên quyết đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; sức mạnh của chính trị - tinh thần, của bản sắc văn hóa Việt Nam phát huy cao độ; sức mạnh của nền kinh tế liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao; sức mạnh của trang bị vũ khí từng bước hiện đại hóa để đủ sức răn đe, bảo vệ hòa bình, ngăn ngừa chiến tranh từ sớm, từ xa. Sức mạnh quốc tế được phát huy cao độ khi chúng ta đứng trên lập trường chính nghĩa, dựa trên luật pháp quốc tế, phù hợp với giá trị chung mà nhân loại cùng quan tâm như: Bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, các lợi ích chiến lược của quốc gia - dân tộc phù hợp với luật pháp quốc tế; bảo vệ quyền tự do, an toàn hàng hải và hàng không; bảo vệ hòa bình trong khu vực và trên thế giới, chống sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực; mở rộng hợp tác với các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và lợi ích chiến lược của đất nước gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ các chuẩn mực của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Quan điểm của Việt Nam vì thế nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế, càng làm cho chúng ta rèn thêm bản lĩnh trong cuộc đấu tranh chính nghĩa, bóc trần sai trái của bất cứ thế lực nào có âm mưu và hành động vi phạm chủ quyền và lợi ích chiến lược đất nước ta mà luật pháp quốc tế đã công nhận. Tính chính nghĩa đó sẽ được chuyển hóa thành sự giúp đỡ về mặt vật chất, ủng hộ về mặt chính trị - tinh thần để tăng cường nền quốc phòng toàn dân, hiện đại hóa lực lượng vũ trang nhân dân, nâng cao năng lực tự bảo vệ đất nước. Trong trường hợp đó, cả sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại được phát huy trong sự gắn kết hữu cơ để tạo nên sức mạnh tổng hợp ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hòa bình, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chiến lược của đất nước, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Sức mạnh tổng hợp dựa vào vai trò nòng cốt của công nhân, nông dân, trí thức với phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Phát huy sức mạnh của liên minh giữa công nhân, nông dân, trí thức và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề rất cơ bản của phát huy sức mạnh tổng hợp của quốc gia - dân tộc. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ được mở rộng đến mức lớn nhất, phát huy cao nhất, khi sức mạnh của công nhân, nông dân, trí thức được động viên, khơi dậy, thật sự đóng vai trò nòng cốt. Càng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng phải củng cố sức mạnh của khối liên minh giữa công nhân, nông dân, trí thức, nếu không sẽ rơi vào “chủ nghĩa toàn dân”, thiếu lực lượng nòng cốt đủ bản lĩnh cho xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc rộng lớn.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng xác định công - nông - trí là động lực cách mạng, đồng thời ra sức mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt thành phần giai cấp, miễn là có tinh thần yêu nước chống đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc. Để củng cố, tăng cường và phát huy vai trò của công nhân, nông dân và trí thức, Đảng đã đưa ra các khẩu hiệu đấu tranh phù hợp, như tăng lương, giảm giờ làm, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức... Khi đã có chính quyền thì đẩy mạnh chống “giặc đói”, chống “giặc dốt”, thực hành các quyền tự do dân chủ để giải phóng sức mạnh của công nhân, nông dân, trí thức - những người vốn chịu nhiều thiệt thòi dưới ách áp bức của thực dân, phong kiến. Khi điều kiện chín muồi, Đảng chủ trương cải cách ruộng đất, đưa lại quyền làm chủ ruộng đất cho nông dân. Đi liền với nhấn mạnh yêu cầu củng cố liên minh công - nông - trí, Đảng cũng luôn coi trọng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất ở các thời kỳ cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Mẫu số chung cho xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc chính là đánh đuổi đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hùng cường. Nhờ đó mà khối đại đoàn kết toàn dân tộc được mở rộng và xây dựng vững chắc, lấy Đảng làm hạt nhân lãnh đạo, lấy liên minh công - nông - trí làm nòng cốt.
Khi chuyển sang thời kỳ xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, Đảng hết sức coi trọng chăm lo quyền lợi công nhân, nông dân và trí thức. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đường lối của Đảng là giải phóng mọi tiềm năng, sức mạnh của công nhân, nông dân, trí thức dựa trên cơ sở tôn trọng lợi ích chính đáng của cá nhân con người, coi trọng phân phối theo lao động, bảo đảm cho công nhân có quyền tự do lựa chọn nơi làm việc và ngành, nghề phù hợp theo tín hiệu của thị trường để phát huy tốt nhất năng lực vốn có của mỗi người; nông dân có chủ quyền trên ruộng đất được làm chủ; trí thức được tự do lao động sáng tạo, tham gia giám sát và phản biện xã hội, có khả năng “vốn hóa” tri thức của mình, được bảo vệ bản quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ. Cơ chế đó làm cho tính tích cực của công nhân, nông dân, trí thức được phát huy tốt hơn, bảo đảm cho người có năng lực, có đóng góp nhiều hơn thì xứng đáng được hưởng thu nhập cao hơn. Mặt khác, kinh tế thị trường cũng khiến một bộ phận công nhân, nông dân, trí thức gặp khó khăn như thiếu việc làm và thu nhập bền vững của công nhân, bị chèn ép giá nông sản, thu hẹp diện tích canh tác, rủi ro thiên tai... của nông dân, tình trạng bấp bênh đời sống của trí thức. Khắc phục khó khăn này, Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao phúc lợi xã hội như: Thúc đẩy việc làm bền vững, bảo vệ quyền lợi cho công nhân trước chủ sử dụng lao động (thời gian và môi trường làm việc, chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội; phúc lợi công ty; quyền công đoàn...); nâng cao đời sống cho nông dân dựa trên chuyển đổi sang nền nông nghiệp hiện đại, nông dân khá giả, nông thôn văn minh; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và tôn trọng tự do học thuật của trí thức... Đồng thời với quan tâm chăm lo quyền lợi của công nhân, nông dân, trí thức, Đảng cũng rất coi trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc như: Xây dựng cơ chế, chính sách tự do kinh doanh bình đẳng để doanh nhân phát huy năng lực của chính họ; xem đồng bào ta ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, có nhiều chính sách bảo hộ công dân, khuyến khích đầu tư về trong nước; ra sức chăm lo đoàn kết, tập hợp đồng bào các tôn giáo, các dân tộc thiểu số... Mẫu số chung để đoàn kết, tập hợp mọi giai cấp, tầng lớp là phấn đấu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được mở rộng càng có điều kiện để chăm lo tốt hơn quyền lợi công nhân, nông dân và trí thức. Liên minh công - nông - trí và hợp tác giữa công nhân, nông dân, trí thức với doanh nhân ngày càng được thực hiện một cách hài hòa, có hiệu quả, phù hợp với cơ chế thị trường, hạn chế các xung đột xã hội, như mô hình “bốn nhà” (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) hay mô hình trí thức góp vốn kinh doanh bằng giá trị quyền sở hữu trí tuệ... Lực lượng doanh nhân đã và đang đóng vai trò tích cực vào phát triển đất nước, kinh tế tư nhân trở thành một lực lượng nòng cốt (cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể) để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nhiều chính sách cho công nhân, nông dân, trí thức được Đảng, Nhà nước thực hiện gián tiếp thông qua can thiệp chính sách, luật pháp để điều tiết hành vi của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, như bảo đảm tiền lương tối thiểu, bảo hiểm cho người lao động, nâng cao phúc lợi công ty hay liên kết giữa doanh nghiệp với hợp tác xã và nông dân trong nền kinh tế thị trường, góp phần đưa nông hộ thoát dần “bẫy sản xuất nhỏ” manh mún, bấp bênh.
Sức mạnh tổng hợp dựa trên phát huy vai trò của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, giữa kết hợp lực - thế - thời
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của nghệ thuật sử dụng vai trò quyết định của lực lượng chính trị và bạo lực chính trị, còn lực lượng vũ trang và bạo lực vũ trang có vai trò rất quan trọng hỗ trợ cho lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, khi đấu tranh vũ trang được đẩy lên cao hơn và lực lượng vũ trang ngày càng được tăng cường, nhưng lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị vẫn giữ vai trò cực kỳ quan trọng. Điện Biên Phủ là trận chiến thử thách sức mạnh tổng hợp của cả hai phía, nhưng đụng đầu trực tiếp là sức mạnh của lực lượng vũ trang giữa hai bên và thắng lợi thuộc về quân đội ta, dân tộc ta, nhân dân ta, buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp lại bằng giải pháp chính trị - ngoại giao, nhờ bệ đỡ phía sau là sức mạnh quân sự với chiến thắng Điện Biên Phủ. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc được quyết định bằng sức mạnh của lực lượng vũ trang, bằng cuộc tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết hợp với nổi dậy của đông đảo quần chúng. Nhưng để đi tới Đại thắng Mùa xuân năm 1975, cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã thực hiện theo phương châm đánh địch bằng “hai chân” (lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang), “ba mũi” (đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và đấu tranh binh vận), “ba vùng chiến lược” (nông thôn đồng bằng, miền núi, đô thị), kết hợp giữa đấu tranh quân sự với mở mặt trận ngoại giao vào thời điểm phù hợp. Đấu tranh chính trị là cuộc đấu tranh giữ dân, bảo vệ dân, chống lại các chiến dịch o ép tách dân khỏi cách mạng, bắt phu, bắt lính, bóc trần bản chất của chế độ thuộc địa kiểu mới ở miền Nam, khẳng định tính chính nghĩa của chính quyền cách mạng, tạo nền tảng cho xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang nhân dân. Vào các thời điểm mang tính bước ngoặt của cách mạng, đấu tranh chính trị nổ ra dưới nhiều hình thức khác nhau, như “đồng khởi”, “nổi dậy”, được kết hợp nhuần nhuyễn và hỗ trợ của đấu tranh vũ trang. Đấu tranh chính trị - pháp lý được mở ra sau các đòn tiến công quân sự, buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, ký kết Hiệp định Pa-ri, chấp nhận rút quân về nước, lập lại hòa bình, công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta. Đấu tranh vũ trang trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được nâng dần lên do yêu cầu của cách mạng, nhất là từ sau năm 1959, cùng phối hợp với mặt trận đấu tranh chính trị, ngoại giao, tạo nên sức mạnh tổng hợp đủ sức đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, làm xoay chuyển cục diện chiến trường, chuyển từ giành thắng lợi quyết định đến giành thắng lợi hoàn toàn.
Hòa bình được lập lại, đất nước thống nhất và bước vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, lấy quân đội nhân dân và công an nhân dân làm nòng cốt. Nền quốc phòng toàn dân vững mạnh được bảo đảm bởi “thế trận lòng dân”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, đủ sức đề kháng trước mọi âm mưu, thủ đoạn và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch - cơ sở cho xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân và lực lượng dự bị động viên vững mạnh. Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lĩnh vực ưu tiên tiến thẳng vào hiện đại, đủ sức răn đe và sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, làm điểm tựa cho xây dựng, củng cố lực lượng chính trị. Trong thời bình, lực lượng vũ trang có vai trò nòng cốt bảo đảm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, triệt tiêu từ sớm, từ xa các yếu tố đe dọa an ninh quốc gia từ bên trong, tạo cơ sở cho xây dựng, củng cố cơ sở chính trị vững mạnh. An ninh kinh tế, an ninh chính trị, an ninh văn hóa, an ninh mạng ngày càng trở thành những mặt trận nóng bỏng có thể gây nên các biến động chính trị - xã hội nếu không nêu cao cảnh giác, không triệt tiêu từ gốc các nguy cơ. Vì vậy, lực lượng công an nhân dân đóng vai trò nòng cốt để bảo đảm an ninh, an toàn trước các thách thức, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội. Sức mạnh chính trị của khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố vững mạnh, tạo cơ sở xã hội cho xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo “thế trận lòng dân” vững chắc cho xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Kết hợp giữa “lực - thế - thời” vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật phát huy sức mạnh tổng hợp rất đặc sắc của Đảng ta. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, “lực” là sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, mọi nguồn lực được huy động ở mức độ cao nhất, nhưng “lực” được sử dụng trong “thế” có lợi nhất, tận dụng tối đa yếu tố thời cơ, bao gồm cả góp phần thúc đẩy cho thời cơ xuất hiện và khả năng tận dụng, chớp thời cơ để giành thắng lợi. Ngày nay cũng vậy, “lực” là sức mạnh tổng hợp cả vật chất và tinh thần, khả năng chuyển hóa để tạo nên sức mạnh mới có tác dụng lớn hơn. “Thế” được tạo ra từ cách sử dụng nguồn lực tập trung, hội tụ đủ tầm mức để giải quyết được các khâu đột phá chiến lược, không được phân tán, dàn trải. “Thế” là thế đứng của Việt Nam khi nêu cao nền quốc phòng hòa bình, tự vệ, đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích chiến lược đất nước phù hợp với luật pháp quốc tế. Đó còn là “thế” đan cài lợi ích của Việt Nam trong lợi ích chung của khu vực và thế giới. “Thế” đan cài này còn giúp Việt Nam trong khi kiên trì, kiên quyết đấu tranh với các “đối tượng” để giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chiến lược đất nước phù hợp với luật pháp quốc tế vẫn giữ được các mối quan hệ tích cực, các quan hệ hợp tác đã tạo lập, không đánh mất cục diện có lợi cho cách mạng. Đó còn là “thời” dù thế giới biến động phức tạp, khó lường, nhưng các lợi ích và giá trị chung mà nhân loại theo đuổi, như hòa bình, an toàn, tự do hàng hải, hàng không, công lý của luật pháp quốc tế, vẫn luôn nhận được sự ủng hộ rộng rãi của thế giới,... mà bất cứ thế lực nào muốn tìm cách phá vỡ cũng phải cân nhắc kỹ lưỡng. Vì vậy, “thời” của đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lợi ích chiến lược đất nước gắn chặt với bảo vệ hòa bình, ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ các giá trị chuẩn mực của luật pháp quốc tế. “Thời” còn là thời đại mà hợp tác vẫn là xu thế chủ đạo, tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng chặt chẽ, thế giới không còn bị tách biệt thành các khối riêng rẽ, nên Đảng ta luôn tìm cách tận dụng, phát huy, thúc đẩy hợp tác toàn diện...
Sức mạnh tổng hợp dựa vào phát huy tiềm năng, thế mạnh của mọi địa bàn chiến lược; giữa kết hợp sức mạnh của “bàn tay hữu hình” và sức mạnh của “bàn tay vô hình”
Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, nhờ chú trọng tất cả các địa bàn chiến lược mà Đảng đã gây dựng và phân bố lực lượng cách mạng rộng khắp, tổ chức đấu tranh từ nông thôn đồng bằng, miền núi, đến đô thị, biển, đảo. Khi bắt đầu gây dựng lực lượng cách mạng, để phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt của công nhân, nông dân, trí thức, Đảng hết sức chú ý đến các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ ở khu vực đô thị, khu công nghiệp và địa bàn nông thôn rộng lớn. Khi chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang hoặc chuyển sang tiến hành chiến tranh cách mạng, Đảng chú trọng xây dựng các căn cứ địa, chiến khu, được lựa chọn ở các địa bàn xung yếu là miền núi, vùng dân tộc thiểu số, rồi mở rộng dần áp sát các đô thị gắn với đà phát triển của lực lượng cách mạng, chuẩn bị cho các cuộc tổng khởi nghĩa hoặc kết hợp giữa tổng tiến công và nổi dậy. Giao thông biển cũng được phát huy cao độ trong vận chuyển hàng viện trợ quốc tế, vận chuyển sức người, sức của từ miền Bắc cho chiến trường miền Nam với Đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại. Các căn cứ trên đảo tiền tiêu đóng vai trò rất quan trọng bảo vệ Tổ quốc, chống tiếp cận từ hướng biển, cảnh giới tấn công bằng đường không của kẻ địch.
Chuyển sang thời kỳ xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, Đảng ta hết sức chú trọng xây dựng quy hoạch và đầu tư phát triển hài hòa các vùng chiến lược, triển khai các chính sách phân bố lại lao động từ đồng bằng cho miền núi, tổ chức khai thác hợp lý các tiềm năng thế mạnh đô thị, đồng bằng, miền núi và biển đảo phục vụ phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với bảo đảm quốc phòng - an ninh. Không giống một số mô hình trên thế giới có thể ưu tiên cho đô thị mà hy sinh nông thôn, lựa chọn đánh đổi giữa tạo động lực tăng trưởng cho đồng bằng mà lãng quên miền núi, Đảng ta ngay từ sớm chủ trương thực hiện phát triển hài hòa giữa nông thôn và đô thị, giữa đồng bằng và miền núi, hải đảo, để phát huy đầy đủ sức mạnh mọi vùng miền, cùng tạo nên khả năng tương trợ, hợp lực, cùng phát triển. Nhờ đó, sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng miền trong quá trình áp dụng cơ chế thị trường được kiểm soát, nguồn lực của đất nước được phát huy cao độ, đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường.
Trong điều kiện áp dụng cơ chế thị trường, kết hợp giữa sử dụng sức mạnh của “bàn tay hữu hình” (nhà nước) và “bàn tay vô hình” (thị trường) cũng là một phương pháp rất cần được tổng kết. Trong khi nhiều nước từ chỗ tuyệt đối hóa vai trò nhà nước chuyển sang tuyệt đối hóa vai trò của thị trường, thực hiện tư nhân hóa nền kinh tế, để lại những hệ lụy cho phát triển và phát sinh nhiều bất công xã hội, thì Đảng ta ngay từ sớm đã có quan điểm biện chứng khi đánh giá đúng vai trò và khuyết tật của thị trường, nhận thức rõ sức mạnh và giới hạn của nhà nước, đòi hỏi phải sử dụng một cách hợp lý. Quá trình đổi mới làm cho chúng ta nhận thức đầy đủ hơn vai trò chủ yếu của thị trường trong huy động và phân bổ nguồn lực, nhờ đó mà nguồn lực đến đúng địa chỉ sử dụng hiệu quả, sức sản xuất được giải phóng, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Đồng thời, Đảng luôn khẳng định nền kinh tế thị trường chỉ giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa khi có vai trò quản lý của nhà nước thông qua các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, thông qua phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và thực hiện các chính sách xã hội tiến bộ. Nguồn lực của nhà nước cũng không sử dụng một cách chủ quan, mà phân bổ theo chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, áp dụng cơ chế thị trường, lấy hiệu quả làm thước đo. Nguồn lực của nhà nước có giới hạn, nó phải được bổ sung bằng chính nguồn lực của xã hội thông qua điều tiết bởi “bàn tay vô hình” của thị trường và phát huy vai trò của các tổ chức xã hội. Kết hợp hợp lý giữa sức mạnh “bàn tay vô hình” và sức mạnh “bàn tay hữu hình” giúp chúng ta vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức khá cao trong suốt hơn 30 năm đổi mới, vừa bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, rộng hơn là giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển.
* * *
Một trong những thuộc tính quan trọng của sức mạnh tổng hợp là tính hợp trội mà từng yếu tố thành phần riêng lẻ không thể có được. Tính hợp trội tạo nên những năng lực, sức mạnh, khả năng mới cho cách mạng Việt Nam, thậm chí còn tạo nên những biến đổi mới về chất trong so sánh tương quan lực lượng. Tính hợp trội được tạo ra khi xử lý tốt mối quan hệ giữa kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh của khối liên minh giữa công nhân, nông dân, trí thức với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; sức mạnh vật chất với sức mạnh tinh thần; sức mạnh của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; sức mạnh kết hợp giữa lực - thế - thời, tiềm năng, thế mạnh của các vùng, miền; sức mạnh của “bàn tay hữu hình” và sức mạnh của “bàn tay vô hình”... Khả năng mới được tạo ra từ tính hợp trội chính là sức mạnh tổng hợp quốc gia dựa trên sự bổ sung, tương tác giữa các loại lực lượng, nguồn lực, thế và lực để khắc phục điểm yếu, phát huy điểm mạnh, làm cho sức mạnh nhân lên cấp số nhân; thúc đẩy chuyển hóa tạo nên chất lượng mới của sự vật, hiện tượng để tạo nên sức mạnh vượt trội cho cách mạng như: Chuyển hóa giữa sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất, giữa sức mạnh bên ngoài thành sức mạnh bên trong, giữa số lượng và chất lượng; tạo nên vị thế, thế đứng mới của cách mạng, từ đó lấy thế để chế ước lực, lấy thế để thắng lực; tạo ra những năng lực hấp thu, sử dụng mọi nguồn lực khác tốt hơn, mang lại giá trị gia tăng cao hơn; bảo đảm tính tập trung, hội đủ sức mạnh cần thiết để thúc đẩy thời cơ xuất hiện, tạo nên các đột phá chiến lược, mở ra cục diện và bước ngoặt mới cho phát triển. Vai trò lãnh đạo của Đảng chính là nhân tố quyết định bảo đảm cho từng loại sức mạnh riêng lẻ được tích hợp thành sức mạnh tổng hợp; làm cho sức mạnh tổng hợp được phát huy đầy đủ để hiện thực hóa mục tiêu cũng như giải quyết các tình huống cụ thể mà thực tiễn đặt ra trong các không gian, thời gian và điều kiện cụ thể./.
Để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong doanh nghiệp tư nhân  (17/02/2020)
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng trong Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện nay  (13/02/2020)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển