18/03/2025 | 17:39 PM

Xem với cỡ chữ

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, theo định hướng xã hội chủ nghĩa

PGS, TS PHẠM THỊ TÚY
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
17:39, ngày 18-03-2025

TCCS - Trở thành nền kinh tế thị trường hiện đại là mong muốn của nhiều nền kinh tế. Việc được công nhận quy chế kinh tế thị trường sẽ mở ra nhiều cơ hội mới về đầu tư, thương mại, trong quá trình tham gia chuỗi giá trị toàn cầu... và làm cho các tổ chức quốc tế cũng như các đối tác tiềm năng có cách nhìn mới về quốc gia đó.

Bốc, xếp hành hóa xuất - nhâp khẩu tại cảng Cần Thơ _Nguồn: nhiepanhvadoisong.vn

Thực tiễn phát triển cho thấy, kinh tế thị trường là mô hình tổ chức vận hành kinh tế hiệu quả của nhân loại. Mỗi một thể chế chính trị, với thực tiễn mỗi quốc gia mà kinh tế thị trường được hình thành, phát triển với các mô hình mang nét đặc thù, dù vậy đều phải bảo đảm đặc tính chung mà hiện nay được thể hiện bằng các tiêu chí, trong đó một số quốc gia gọi chung là quy chế kinh tế thị trường. Do đó, để khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam hội đủ các tiêu chí của một nền kinh tế thị trường hiện đại cần đối chứng hiện thực nền kinh tế Việt Nam với các tiêu chí về nền kinh tế thị trường/hay quy chế kinh tế thị trường đang hiện hữu.

Bằng góc nhìn khoa học đối với nền kinh tế Việt Nam sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam ở thời điểm hiện nay thực sự là một nền kinh tế thị trường hiện đại, bởi các căn cứ sau:

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành, vận hành trên cơ sở và nguyên tắc của nền kinh tế thị trường hiện đại

Nhìn lại lịch sử phát triển nhân loại cho thấy, loài người đã trải qua hai kiểu tổ chức sản xuất xã hội để hình thành nền tảng kinh tế phục vụ nhu cầu sinh tồn, phát triển của xã hội loài người, đó là sản xuất phục vụ nhu cầu tự thân (hay còn gọi là tự cung tự cấp) và sản xuất phục vụ nhu cầu xã hội (gọi là sản xuất hàng hóa), tương ứng với mỗi kiểu tổ chức sản xuất này là cách thức tổ chức, vận hành kinh tế, đó là kinh tế tự nhiên kinh tế hàng hóa. Theo dòng lịch sử, kinh tế hàng hóa xuất hiện vào cuối thời kỳ tan rã của hình thái Công xã nguyên thủy, bước vào Chiếm hữu nô lệ với dạng thức ban đầu là kinh tế hàng hóa giản đơn; sau tiến triển lên kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Ở trình độ này, nền kinh tế thị trường tiến triển qua hai mô hình cơ bản là:

Kinh tế thị trường tự do cạnh tranh (hay còn gọi là kinh tế thị trường cổ điển - hình thành từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX) là nền kinh tế vận hành chủ yếu bởi điều tiết của các quy luật thị trường (giá trị, cung - cầu, cạnh tranh...), có rất ít hoặc không có sự can thiệp của nhà nước. Tuy nhiên, sự điều tiết của quy luật thị trường - “bàn tay vô hình”, ngoài những ưu việt, còn có những “khuyết tật”, đặc biệt là khủng hoảng kinh tế chu kỳ(1), đòi hỏi có sự can thiệp/quản lý của nhà nước  - “bàn tay hữu hình” để hạn chế, khắc phục khuyết tật do điều tiết tự phát của cơ chế thị trường. 

Kinh tế thị trường hỗn hợp (hay còn gọi là kinh tế thị trường hiện đại - hình thành từ những năm 40 của thế kỷ XX đến nay) là nền kinh tế vận hành trên cơ sở kết hợp/dung hợp cơ chế tự điều tiết của quy luật thị trường với sự can thiệp/điều tiết của nhà nước. Tức là nền kinh tế vừa có sự điều tiết bởi các quy luật kinh tế khách quan - “bàn tay vô hình”, vừa có điều tiết bởi nhà nước - “bàn tay hữu hình”.

Như vậy, về nguồn gốc, bản chất kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa có trước chủ nghĩa tư bản, là thành quả, sản phẩm của văn minh nhân loại được hình thành, phát triển bởi lịch sử phát triển kinh tế nhân loại, nhưng trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhất là ở các nước tư bản phát triển, kinh tế thị trường đã được vận dụng rất thành công, dẫn đến nhiều người lầm tưởng kinh tế thị trường là sản phẩm “riêng có” của chủ nghĩa tư bản, do chủ nghĩa tư bản “sáng tạo nên”.

Bởi tính ưu việt của nền kinh tế thị trường hiện đại, ngày nay, hầu hết quốc gia, bao hàm cả các nước tư bản phát triển trên thế giới đều là nền kinh tế thị trường có sự can thiệp/quản lý của nhà nước, song do mục tiêu phát triển quốc gia, do điều kiện thực tiễn khác nhau mà kinh tế thị trường có sự can thiệp/quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới là không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, nhiều mô hình khác nhau được hình thành, như kinh tế thị trường tự do ở Mỹ, kinh tế thị trường xã hội ở Đức, kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển, kinh tế thị trường phối hợp ở Nhật Bản, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc...

Từ những khái lược trên, có thể khẳng định rằng, từ tư duy lý luận đến thực tiễn, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành và vận hành trên cơ sở và nguyên tắc của nền kinh tế thị trường hiện đại mà nhân loại đã kiến tạo nên, cụ thể là:

Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam có những tiền đề, điều kiện để sản xuất hàng hóa ra đời, phát triển và hiện thực chứng minh Việt Nam đã có bước chuyển rõ nét trong phát triển nền kinh tế từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới năm 1986. Công cuộc đổi mới bằng việc lựa chọn phát triển “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”(2) trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. 

Thứ hai, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường kết hợp cơ chế điều tiết của các quy luật thị trường và sự điều tiết của Nhà nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại - là sự lựa chọn sáng suốt, phù hợp thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển thời đại.

Mặc dù Việt Nam chưa trải qua phát triển mô hình kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, song Việt Nam có trải nghiệm về mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung (nền kinh tế vận hành chủ yếu dưới sự điều hành của Nhà nước). Trải nghiệm này góp thêm căn cứ chứng thực rằng, nền kinh tế của một quốc gia, nếu vận hành tuyệt đối theo mô hình kinh tế thị trường tự do cạnh tranh hay mô hình kinh tế kế hoạch hóa đều bộc lộ hạn chế và khiếm khuyết nhất định. Điều đó có nghĩa rằng, kinh tế thị trường hiện đại là mô hình kinh tế được xem là hiệu quả nhất đã được kiểm chứng thực tiễn.

Thứ ba, lựa chọn, tiến hành công cuộc đổi mới là đột phá trong tư duy kinh tế, song nền kinh tế Việt Nam đã xác lập đầy đủ theo hướng tiệm cận hiện đại nền kinh tế thị trường hỗn hợp - nền kinh tế vận hành trên có sở tuân thủ cơ chế hoạt động của các quy luật kinh tế thị trường, đồng thời dung hợp với sự quản lý, định hướng của Nhà nước.

Quá trình hình thành, phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam rất rõ nét. Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới (1986 - 2001), Việt Nam thực hiện kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đây là giai đoạn chuẩn bị để kinh tế hàng hóa hội đủ các điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường. Chính vì vậy, Đại hội IX (năm 2001) xác định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(3).

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng các tiêu chí của một nền kinh tế thị trường theo thang đo được chấp nhận phổ quát

Hiện nay, có một số bộ tiêu chí được sử dụng để đo lường mức độ phát triển kinh tế thị trường.

Bảng 1 cho thấy, mặc dù có số lượng tiêu chí đánh giá khác nhau, song về cơ bản các tiêu chí này tập trung vào hai nhóm yếu tố chủ yếu, đó là chỉ số tự do kinh tế (Economic Freedom - EF)(4) và mức độ can thiệp của chính phủ. Vì vậy, chỉ cần tập trung xem xét hai nhóm chỉ số này thì có thể khẳng định, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã hội đủ các tiêu chí của một nền kinh tế thị trường hiện đại hay chưa theo thang đo được chấp nhận phổ quát.

Nguồn: Tác giả tổng hợp***

Thực vậy, về chỉ số tự do kinh tế(5), từ năm 1986 đến nay, những cải cách theo hướng tự do kinh tế, phát triển kinh tế thị trường Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Thứ nhất, về hệ thống pháp luật, trọng tâm là bảo đảm các quyền tài sản đã được thực thi khá tốt, chẳng hạn, tính đến tháng 4-2022, Chính phủ đã hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận lần đầu cho hầu hết đối tượng đang sử dụng đất (trên 97,6%) và hoàn thành trên 77% diện tích tự nhiên; trong đó, đất sản xuất nông nghiệp đạt trên 93%, đất lâm nghiệp đạt trên 98%, đất nuôi trồng thủy sản đạt trên 87%, đất ở nông thôn đạt trên 96%, đất ở đô thị đạt trên 98%, đất chuyên dùng đạt trên 87%, đất của cơ sở tôn giáo đạt trên 83%(6). Quyền tài sản và các quyền khác trong kinh doanh đã được thiết lập cơ bản và vẫn tiếp tục được cải thiện.

Thứ hai, về quy mô chính phủ, trọng tâm là đo lường mức thuế; chi tiêu chính phủ; “sức khỏe” tài khóa. Thực tế cho thấy, mức độ tham gia của Chính phủ tới nền kinh tế tại Việt Nam ở mức vừa phải. Cụ thể, mức thuế thu nhập cá nhân cao nhất là 35% và mức thuế thu nhập doanh nghiệp cao nhất là 22%. Các loại thuế khác bao gồm thuế giá trị gia tăng và thuế tài sản. Tổng gánh nặng thuế tương đương 18,6% tổng thu nhập trong nước. Chi tiêu của Chính phủ đã lên tới 28,3% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của quốc gia trong 3 năm qua (tính đến năm 2018) và thâm hụt ngân sách trung bình là 4,7% GDP. Nợ công tương đương 57,5% GDP(7).

Thứ ba, về hiệu quả của quy định đối với doanh nghiệp, ghi nhận ở mức độ nhất định, việc khởi nghiệp ngày càng trở nên dễ dàng hơn và chi phí đăng ký kinh doanh cũng được cắt giảm. Các biện pháp kiểm soát bình ổn giá vẫn có hiệu lực đối với nhiên liệu, năng lượng, nước, tài nguyên thiên nhiên và dược phẩm.

Đóng gói mặt hàng tôm xuất khẩu tại Công ty Cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, tỉnh Hậu Giang _Ảnh: TTXVN

Thứ tư, về mức độ mở cửa của thị trường, Việt Nam đạt được sự tiến bộ vượt bậc, độ mở của nền kinh tế thông qua chỉ số tỷ lệ giữa kim ngạch xuất, nhập khẩu/GDP. Hiện tại, độ mở cửa của nền kinh tế Việt Nam là hơn 200% GDP và được đánh giá là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn. Chính phủ Việt Nam luôn tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài, tính lũy kế đến hết năm 2023, Việt Nam thu hút được 39.140 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đăng ký đạt 468,917 tỷ USD(8). Khu vực tài chính tiếp tục phát triển và việc cho vay theo chỉ đạo của các ngân hàng thương mại nhà nước đã được thu hẹp trong những năm gần đây.

Thứ năm, ghi nhận của Quỹ Heritage (Mỹ) về chỉ số tự do kinh tế của Việt Nam năm 2023 rất tích cực, bởi Việt Nam trong nhóm các nền kinh tế có “mức độ tự do kinh tế trung bình” và đứng thứ 59/176 quốc gia được xếp hạng, khá hơn trên 100 quốc gia khác, theo đó Việt Nam đã tăng tới 13 bậc trong bảng xếp hạng, đồng thời cũng có nhận định của GS, TS Andreas Stoffers: không có nước nào tiến bộ nhanh chóng về mặt tự do kinh tế trong 30 năm qua hơn Việt Nam. Hiện nay, vị thế Việt Nam đã đạt được rất ấn tượng, nhưng quan trọng hơn cả là xu hướng đi lên một cách rõ rệt của quốc gia(9).

Về mức độ can thiệp của chính phủ, trước hết với những kết quả đạt được ở mức độ tự do thị trường là bằng chứng về quy mô và phạm vi tác động của Chính phủ tới nền kinh tế thị trường là tích cực. Tiếp đến, ở phương diện khác, Chính phủ Việt Nam đã và đang nỗ lực cao trong hoàn thiện hệ thống thể chế, trực tiếp là kịp thời ban hành chính sách khuyến khích hoạt động kinh doanh và có tác động tích cực đến sự tự do kinh tế của doanh nghiệp, người lao động. Cụ thể, nhiều nghị quyết(10) quan trọng nhằm tạo khung khổ thể chế để doanh nghiệp, chủ thể xã hội phát huy các quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, sản xuất, tự do lao động; tự do tiền tệ... cải cách hành chính, thuế, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi và giảm áp lực thuế để doanh nghiệp và chủ thể xã hội tạo ra sự tăng trưởng kinh tế và việc làm đều đặn.

Như vậy, căn cứ trên các tiêu chí đánh giá và so sánh kết quả hiện thực, có thể đưa ra một số nhận định sau:

Một là, theo tiêu chí tự do kinh tế, việc phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam có nhiều cải thiện đáng kể, đáp ứng tiêu chí tự do kinh tế.

Hai là, trên phương diện quy mô và phạm vi tác động của Chính phủ đều ghi nhận sự cải thiện rõ ràng về phương diện hệ thống luật pháp theo hướng tôn trọng các quy luật của thị trường và tôn trọng cạnh tranh lành mạnh.

Ba là, ngoài việc chú trọng đáng kể ở các phương diện đánh giá quan trọng với các kết quả được ghi nhận trên, nhờ thực hành tốt phát triển kinh tế thị trường mà chính phủ Việt Nam đã và đang có được nhiều hơn những cải thiện trên phương diện xã hội rộng rãi hơn, tiến bộ hơn, đó là giảm nghèo đa chiều chuyển biến tích cực; thực thi khả quan trong giảm bất bình đẳng giới; gia tăng trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức đối với doanh nghiệp, người dân; gia tăng mức độ tham gia của doanh nghiệp, người dân và thực thi các cam kết quan trọng bảo đảm chất lượng môi trường.

Hiện thực phát triển kinh tế Việt Nam là bằng chứng khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường

Với gần 40 năm hình thành và phát triển, bằng những cải cách mạnh mẽ, song có lộ trình, kết quả được tạo nên trên hành trình Việt Nam xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đó là:

Thứ nhất, ở phương diện là sự can thiệp của Nhà nước. Kết quả cụ thể như sau:

Ở giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2001, Nhà nước Việt Nam đã tạo tiền đề, bảo đảm các điều kiện để hình thành nền kinh tế thị trường, đó là: 1- Khẳng định các yếu tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế hàng hóa trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, như công nhận các thành phần kinh tế với các loại hình sở hữu khác nhau, cùng tồn tại lâu dài...; cho phép tự do giao lưu hàng hóa, thống nhất thị trường cả nước; chấp nhận động cơ lợi nhuận trong kinh doanh...; tạo điều kiện để thị trường trở thành công cụ chủ yếu phân bổ các nguồn lực;
2- Xác định rõ định hướng phát triển nền kinh tế là nền kinh tế mở và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với thế giới, chủ trương làm bạn với tất cả các nước, biến nền kinh tế nước ta thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới và khu vực; 3- Khẳng định quan điểm về hướng đích của nền kinh tế là phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Giai đoạn từ năm 2001 đến nay, Việt Nam bước vào xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước Việt Nam đã hiện thực vai trò của mình ở những phương diện như: 1- Việt Nam chuyển sang nhận thức thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội trong giai đoạn tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 2- Xây dựng đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đẩy mạnh việc xây dựng và ban hành khá tổng thể khung thể chế căn bản  - hệ thống các luật nhằm đồng bộ hóa khung thể chế cho các yếu tố thị trường, các khu vực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển; 3- Thúc đẩy hình thành đồng bộ các loại thị trường: Thị trường các yếu tố sản xuất, thị trường lao động, thị trường tài chính  - tiền tệ, thị trường đất đai - bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ...; 4- Tiếp tục hoàn thiện các điều kiện bảo đảm nhằm thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng phát triển đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và hội nhập.

Thứ hai, ở phương diện là kết quả được tạo nên từ các chủ thể kinh tế - xã hội trên hành trình Việt Nam xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và hội nhập. Đó là:

Đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, GDP 26,3 tỷ USD trong những năm đầu đổi mới, đến quy mô nền kinh tế đạt 430 tỷ USD năm 2023, tăng khoảng hơn 53 lần, GDP bình quân đầu người đạt mức 4.300 USD, tăng 58 lần so với bước vào đổi mới; tỷ lệ hộ theo chuẩn nghèo đa chiều còn 2,9% so với mức hơn 20% ở thời điểm trước đổi mới. Đặc biệt, giai đoạn 1986 - 2022, Việt Nam lọt tốp 5 nước có quy mô kinh tế tăng nhiều nhất thế giới.

Việt Nam từ một nền kinh tế đóng cửa khép kín, thành một nền kinh tế có mức độ hội nhập toàn cầu cao. Kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1987) đến năm 2023 đã có 111 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, với số vốn đầu tư thu hút được gần 438,7 tỷ USD và hiện nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; có quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 230 đối tác và quan hệ hợp tác với hơn 300 tổ chức quốc tế. Theo đó, cũng là nền kinh tế có quan hệ đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2023 đạt gần 700 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch thương mại so với GDP của Việt Nam đạt tới gần 200%, điều này minh chứng Việt Nam là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn trên thế giới.

Tự hào về những thành quả mà Việt Nam đã đạt được trong phát triển nền kinh tế thị trường qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, song chúng ta cũng cần nhận thức rõ rằng, trên thực tế việc có được công nhận là nền kinh tế thị trường không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế - kỹ thuật. Cụ thể, tính đến tháng 6-2024, Việt Nam đã được 73 nước công nhận là nền kinh tế thị trường, bao gồm các nền kinh tế lớn, như Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc... Mới đây nhất là Vương quốc Anh đã có Thư chính thức công nhận quy chế thị trường của Việt Nam... trong khi đó, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) hiện tại chưa công nhận. Điều này xuất phát từ sự khác biệt về tiêu chí để công nhận nền kinh tế thị trường... và chính ngay trong bộ tiêu chí của Mỹ và EU cũng có tiêu chí “các yếu tố khác” đã bao hàm ý nghĩa đó.

Với những thành tựu đã đạt được và đặt trong bối cảnh quốc tế, khu vực, cùng đặt trong tương quan so sánh với các nền kinh tế thị trường của các quốc gia khác, Việt Nam đã đáp ứng các tiêu chí để các tổ chức quốc tế, khu vực và Mỹ trao cho Việt Nam quy chế kinh tế thị trường vào thời điểm hiện nay ./.

-------------------

(*) Dựa trên cơ sở thống kê của các tổ chức, như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), và Tổ chức nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế (The Economist Intelligence Unit)
(**) 1- Pháp quyền (Rule of Law): Bảo vệ con người và tài sản của họ có được một cách hợp pháp là yếu tố trung tâm. Đây là chức năng quan trọng nhất của nhà nước, bao gồm các tiêu chí: Quyền sở hữu; hiệu quả tư pháp; chính phủ liêm chính. 2- Quy mô của chính phủ: Khi chi tiêu của chính phủ, thuế và quy mô của doanh nghiệp do chính phủ kiểm soát tăng lên, việc ra quyết định của chính phủ thay thế cho sự lựa chọn của cá nhân và tự do kinh tế bị giảm đi. Ngược lại, nếu các thất bại không được can thiệp đúng lúc, sự tự do trong thị trường chịu những thiệt hại đáng kể. Quy mô của chính phủ bao gồm các tiêu chí: Gánh nặng thuế; chi tiêu chính phủ; “Sức khỏe” tài khóa. 3- Hiệu quả của quy định: Các chính phủ không chỉ sử dụng các công cụ để hạn chế quyền trao đổi quốc tế, họ còn có thể phát triển các quy định hạn chế quyền trao đổi, nhận tín dụng, thuê hoặc tự do điều hành doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trụ cột này bao gồm các tiêu chí: Quyền tự do kinh doanh; tự do lao động; tự do tiền tệ. 4- Thị trường mở: Quyền tự do trao đổi - theo nghĩa rộng nhất của nó, mua, bán, lập hợp đồng,... là điều cần thiết đối với tự do kinh tế, điều này bị giảm bớt khi quyền tự do trao đổi không bao gồm doanh nghiệp và cá nhân ở các quốc gia khác. Trụ cột thị trường mở bao gồm các tiêu chí: Tự do thương mại; tự do đầu tư; tự do tài chính
(***) Tổng hợp từ các nguồn: 1- Trung tâm WTO, VCCI (2008), Quy định của WTO về kinh tế thị trường; 2- Tiêu chí nền kinh tế thị trường của Hoa Kỳ - kinh nghiệm cho Việt Nam, Hội đồng Lý luận trung ương, ngày 25-9-2018, https://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan---thuc-tien/tieu-chi-nen-kinh-te-thi-truong-cua-hoa-ky---kinh-nghiem-cho-viet-nam.html; 3- Trần Quang Tuyến, Lê Văn Đạo: Tiêu chí về nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập quốc tế: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Cộng sản, ngày 7-12-2020, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tieu-chi-ve-nen-kinh-te-thi-truong-day-du-hien-dai-va-hoi-nhap-quoc-te-nhung-van-de-dat-ra-cho-viet-nam-trong-hoan-thien-the-che-kinh-te-thi-truong-di;  4- PGS.TS Nguyễn Văn Thạo, Về tiêu chí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, ngày 1-12-2018,  https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/ve-tieu-chi-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam---ly-luan-va-thuc-tien.html

(1) Đại khủng hoảng 1929 - 1933 là một minh chứng
(2) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội VII
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 84
(4) Chính là mức độ tôn trọng các quy luật thị trường hay còn gọi là mức độ tự do của thị trường
(5) Được bao quát trên cơ sở 4 trụ cột do Quỹ Heritage (Heritage Foundation) công bố và Chỉ số tự do kinh tế (EF) của thế giới và của Bắc Mỹ do Viện Fraser (The Fraser Institute) công bố và đo lường. Các chỉ số này bao gồm các mục, như bảo đảm quyền tài sản, gánh nặng các quy định và độ mở của thị trường tài chính, cùng nhiều mục khác, bao gồm: 1- Hệ thống pháp luật; 2- Quy mô của chính phủ; 3- Hiệu quả của các quy định đối với doanh nghiệp; 4- Độ mở của thị trường
(6) Báo cáo của Tổ công tác Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Kinh tế Bùi Thị Quỳnh Thơ, Tổ trưởng Tổ công tác trình bày, https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=63338.
(7) Trần Quang Tuyến, Lê Văn Đạo: “Tiêu chí về nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập quốc tế: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, ngày 7-12-2020, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tieu-chi-ve-nen-kinh-te-thi-truong-day-du-hien-dai-va-hoi-nhap-quoc-te-nhung-van-de-dat-ra-cho-viet-nam-trong-hoan-thien-the-che-kinh-te-thi-truong-di
(8) Thân Thanh Hằng: “Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 2023 và kỳ vọng năm 2024”, Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách công thương, ngày 11-3-2024, https://vioit.org.vn/vn/chien-luoc-chinh-sach/tinh-hinh-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-tai-viet-nam-nam-2023-va-ky-vong-nam-2024-5788.4050.html
(9) GS, TS Andreas Stoffers - Giám đốc Quốc gia Viện Friedrich Naumann Foundation for Freedom (FNF) tại Việt Nam: “Việt Nam cải thiện đáng kể về chỉ số tự do kinh tế”, Thời báo tài chính Việt Nam, ngày 8-3-2024, https://thoibaotaichinhvietnam.vn/viet-nam-cai-thien-dang-ke-ve-chi-so-tu-do-kinh-te-146291.html
(10) Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 9-12-2011, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 10-10-2023, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới”