Thực hiện quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
TCCS - Văn kiện Đại hội XIII của Đảng định hướng hoàn thiện quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển, phù hợp với cơ chế thị trường. Đó là một trong những yêu cầu để định hướng tới nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp nhằm đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việc nhận thức về quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) cần phải đặt trong nhận thức tổng quát về mô hình nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(1).
Rõ ràng, mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam là sự dung hợp biện chứng giữa “cái chung” và “cái riêng”. Cái chung là nền kinh tế bị chi phối bởi các quy luật thị trường, cái riêng là được quyết định bởi những đặc trưng của CNXH, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. “Đó là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối”(2).
Như vậy, quan hệ phân phối nằm trong sự thống nhất hữu cơ của 3 mặt quan hệ sản xuất, phù hợp với mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam. Các mặt này có quan hệ biện chứng với nhau, nên hoàn thiện quan hệ phân phối cần phải đồng bộ với hoàn thiện các mặt còn lại. Nhận thức như vậy là hoàn toàn phù hợp với nguyên lý Mác - Lê-nin. Phân phối là phạm trù kinh tế chính trị cơ bản, phản ánh quan hệ xã hội trong việc phân chia các nguồn lực, của cải xã hội. Phân phối là một mặt cơ bản của quan hệ sản xuất. Đồng thời, phân phối là một khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội, gồm sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Sự thống nhất, liên thông các khâu bảo đảm cho quá trình tái sản xuất xã hội diễn ra không ngừng và liên tục.
Dưới tác động của các quy luật thị trường, việc phân phối phù hợp các nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả, tạo ra nhiều của cải, đáp ứng nhu cầu cá nhân và xã hội. “Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém”(3). Mỗi chủ thể phát huy năng lực sáng tạo, tìm kiếm cơ hội, tận dụng tối ưu nguồn lực trên cơ sở tuân thủ đúng các quy luật thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh,... Sự đóng góp các nguồn lực, như trí tuệ, vốn, tư liệu sản xuất, tài sản,... vào sản xuất, kinh doanh sẽ được nhận những mức thu nhập tương xứng. Do đó, mức đóng góp các nguồn lực là một trong những căn cứ quan trọng trong việc thực hiện phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Việc hoàn thiện quan hệ phân phối phải thực hiện đồng bộ với hoàn thiện các mặt còn lại của quan hệ sản xuất, bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển, phù hợp với cơ chế thị trường, định hướng tới nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp nhằm đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tiếp tục hoàn thiện quan hệ phân phối
Thứ nhất, hoàn thiện quan hệ phân phối phải đồng bộ với quan hệ sản xuất.
Xuất phát từ nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phân phối là một mặt cơ bản của quan hệ sản xuất, gồm sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Quan hệ phân phối có quan hệ hữu cơ với các mối quan hệ khác trong tổng thể quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất tiến bộ đòi hỏi các quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối phải hoàn thiện tương ứng và ngược lại.
Sự thừa nhận và phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là bước tiến bộ trong hoàn thiện quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu có vai trò quyết định tới quan hệ tổ chức quản lý và phân phối. Quyền sở hữu có ảnh hưởng chi phối tới việc xác định quyền định đoạt và quyền phân phối các lợi ích tạo ra từ các nguồn lực phát triển. Phát huy vai trò của các thành phần kinh tế trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực, phục vụ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội. Sự vững mạnh của các thành phần kinh tế góp phần tạo ra nguồn của cải, cơ sở kinh tế - kỹ thuật làm nền tảng nâng cao năng lực sản xuất xã hội, tạo tiền đề vật chất cho thực hiện an sinh xã hội.
Phân phối bảo đảm sự hài hòa lợi ích giữa các cá nhân và nhóm xã hội trong nền kinh tế thị trường, bảo đảm cho quá trình tái sản xuất xã hội và tái sản xuất sức lao động diễn ra liên tục. Hoàn thiện quan hệ phân phối theo hướng bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển. Xét ở góc độ quản lý, hoàn thiện quan hệ phân phối thể hiện thông qua việc hoàn thiện các công cụ quản lý nhà nước trong điều tiết phân phối và phân phối lại, đặc biệt là chính sách thuế, tài chính - tiền tệ, thu nhập - việc làm, đất đai, tài sản, thừa kế,... Hệ thống công cụ đồng bộ và hiệu lực cao bảo đảm quan hệ phân phối và phân phối lại diễn ra một cách minh bạch, lành mạnh, góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển. Cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ và thống nhất, bảo đảm các chủ thể kinh tế tự do sáng tạo và tạo việc làm theo đúng năng lực của mình; có quyền hưởng thụ những thu nhập chính đáng từ tài sản, của cải và trí tuệ của mình, có quyền huy động các nguồn lực hay phát huy các cơ hội phát triển phục vụ lợi ích của từng cá nhân và xã hội.
Như vậy, hoàn thiện quan hệ phân phối sẽ góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất trong mô hình nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong những thập niên tới. Ngược lại, quan hệ sản xuất mới, tiến bộ phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, đòi hỏi các mặt của chúng phải hoàn thiện tương xứng.
Thứ hai, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trong phân phối.
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý thông qua việc xây dựng, ban hành, tổ chức thực thi pháp luật, chính sách, quy định và kiểm tra, giám sát. Hệ thống pháp luật, chính sách, quy định trong lĩnh vực phân phối rất đa dạng, bao gồm nhiều văn bản quy phạm pháp luật gắn liền với quan hệ phân phối các loại nguồn lực, cơ chế phân bổ, cơ chế kiểm soát và điều tiết các quan hệ phân phối trong xã hội.
Đối tượng phân phối trong nền kinh tế quốc dân vô cùng đa dạng, như các loại thu nhập, lao động, vốn, đất đai, tài nguyên, đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất,... Bản chất và sự vận động của từng loại nguồn lực có những đặc thù nên cần thiết xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật để quản lý, điều tiết quá trình phân phối.
Hơn nữa, cần phải nâng cao hiệu lực các công cụ chính sách trong điều tiết phân phối và phân phối lại, cụ thể như thuế, tài chính - tiền tệ, thu nhập - việc làm, đất đai, tài sản,... Xây dựng chế tài bảo đảm sự lành mạnh trong thực thi luật pháp, chính sách, quy định phân phối, tạo sự công bằng ở mức có thể và tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
Việc phân phối và sử dụng các nguồn lực phải nằm trong phạm vi kiểm soát của Nhà nước nhằm bảo đảm cho sự phát triển kinh tế - xã hội ổn định và mọi thành viên xã hội phải được thụ hưởng bình đẳng những lợi ích mà nguồn lực đó đem lại. Cơ quan quản lý nhà nước phải duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh để các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, minh bạch, có trật tự, kỷ cương; bảo đảm hiệu quả trong phân bổ nguồn lực trong phạm vi nền kinh tế quốc dân.
Phân phối bảo đảm cho sự làm giàu chính đáng, được thể chế hóa bằng các quy định pháp luật, chính sách khuyến khích, đồng thời những hành vi phân phối bất hợp pháp phải bị trừng trị nghiêm minh, bất luận đối tượng vi phạm là ai. Những hành vi dùng các thủ đoạn làm lệch lạc quan hệ phân phối và phân phối lại trong xã hội để trục lợi cá nhân phải được ngăn chặn kịp thời.
Cần phải thực thi những chế tài mạnh, truy cứu trách nhiệm cá nhân vi phạm và người đứng đầu trong việc phân phối và sử dụng sai mục đích các nguồn lực, gây mất hiệu quả hay thất thoát nguồn lực công quốc gia như tình trạng tham nhũng, các nhóm lợi ích lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chi phối nguồn lực công (vốn, tài sản, đất đai, tài nguyên quốc gia, dự án đầu tư...) nhằm trục lợi riêng. Đây là một trong những nguy cơ lớn, gây ra sự lệch lạc phân phối thu nhập và nguồn lực phát triển xã hội. Đảng và Nhà nước thể hiện quyết tâm cao trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Hoàn thiện khung khổ pháp lý và chế tài xử lý về phòng, chống tham nhũng là tiền đề tiên quyết cho cuộc đấu tranh này. Hệ thống pháp luật và các quy định pháp lý cần phải đồng bộ, toàn diện và chặt chẽ, hạn chế tới mức thấp nhất những “kẻ hở” luật pháp cho các đối tượng có ý đồ tham nhũng. Tăng cường các chế tài xử lý tham nhũng, “lợi ích nhóm” trong việc phân phối thu nhập, nguồn lực, đặc biệt nguồn lực công, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân, làm lành mạnh hóa môi trường hành chính nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội.
Thứ ba, thực hiện phân phối công bằng gắn với bảo đảm an sinh xã hội trong quá trình phát triển.
Hoàn thiện quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhằm thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”(4).
Hiện nay, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tồn tại nhiều hình thức phân phối khác nhau, như phân phối theo lao động, theo mức độ đóng góp nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh và thông qua các quỹ phúc lợi xã hội; “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”(5). Mỗi thành viên xã hội có sức khỏe, bắt buộc phải lao động và hưởng thụ thành quả theo mức đóng góp sức lao động về số lượng và chất lượng. Lao động nhiều thì được phân phối nhiều, lao động ít thì được phân phối ít. Lao động khó thì được phân phối nhiều, lao động dễ thì được phân phối ít. Không nên có chủ nghĩa bình quân. Những người có trí tuệ, năng lực và kỹ năng cao hay đóng góp nhiều cho phát triển xã hội sẽ được phân phối thu nhập cao. Ngược lại, những người ít đóng góp hơn (vì nhiều lý do khác nhau) sẽ được hưởng thụ ít hơn. Đồng thời, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công phù hợp với năng lực, cống hiến của người lao động, đủ khả năng bù đắp chi phí sinh hoạt và tái sản xuất sức lao động cho bản thân và gia đình họ.
Song song với các hình thức phân phối đó, việc bảo đảm mức bình đẳng có thể cho những người dễ bị tổn thương và yếu thế trong xã hội được thực hiện dưới hình thức phân phối thông qua các quỹ an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. “Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế. Cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng, chia sẻ - bền vững. Triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu và các dịch vụ cơ bản”(6).
Việt Nam tiếp tục củng cố hệ thống an sinh xã hội nhằm nâng cao phúc lợi và bảo vệ các cộng đồng dân cư, đặc biệt nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Hành động thiết thực là hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, đa dạng hóa các hình thức cứu trợ xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống dịch vụ công thiết yếu cần được phát triển đầy đủ nhằm bảo đảm cho mọi thành viên xã hội được tiếp cận và thụ hưởng như giáo dục, y tế, dịch vụ kết cấu hạ tầng,.. Đẩy mạnh hoạt động giảm nghèo bằng những cơ chế mới thích hợp và thu hút nhiều cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước tham gia hỗ trợ nguồn lực cho công tác giảm nghèo, để người nghèo nâng cao năng lực, tự vươn lên, thích ứng với cơ chế thị trường và tìm việc làm, tạo thu nhập bền vững.
Thứ tư, thực hiện phân phối hợp lý đối với các cơ hội phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, tận dụng triệt để cơ hội phát triển là nhân tố quyết định sự thành công của từng chủ thể tham gia thị trường, sáng tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho cá nhân và xã hội. Tạo sự bình đẳng về cơ hội trong phân phối đối với mỗi chủ thể xã hội tham gia vào quá trình phát triển nói chung. Chính vì thế, cần coi trọng hoàn thiện quan hệ phân phối, góp phần bảo đảm bình đẳng về cơ hội phát triển trong xã hội.
Năng lực hiện thực hóa cơ hội là tiền đề quan trọng quyết định tới thu nhập, khả năng cống hiến và hưởng thụ của mỗi chủ thể kinh tế (cá nhân, tổ chức) trong tương lai. Chủ thể biết nắm bắt cơ hội sản xuất, kinh doanh, sáng tạo ra ý tưởng kinh doanh độc đáo, nhạy bén xử lý thông tin,... sẽ hiện thực hóa cơ hội cao hơn. Sự nỗ lực cá nhân, tức là ai đủ năng lực hiện thực hóa cơ hội thì người đó phải được hưởng thụ cao hơn.
Một trong những tiền đề quan trọng bảo đảm bình đẳng cơ hội là hoàn thiện hệ thống pháp luật, công cụ điều tiết và quản lý. Theo đó, các chủ thể tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, các nguồn lực công, cơ chế, chính sách, cơ hội sản xuất, kinh doanh trong môi trường cạnh tranh lành mạnh,... Sự tiếp cận bình đẳng đồng nghĩa với việc tạo cơ hội ngang nhau cho tất cả các chủ thể thể hiện năng lực riêng có (tư duy, tri thức, nhạy bén thị trường, kỹ năng phân tích, dự báo,...) để cạnh tranh tạo lợi nhuận, tăng thu nhập cho bản thân và xã hội. Điều này đòi hỏi sự phát huy tính sáng tạo và độc lập của từng chủ thể trong việc tối ưu lợi ích của mình trên cơ sở tận dụng các cơ hội hiện hữu trong nền kinh tế thị trường.
Đảng và Nhà nước luôn nhất quán quan điểm khuyến khích làm giàu hợp pháp đối với mọi chủ thể tham gia thị trường. Những cá nhân, doanh nghiệp có đủ năng lực và nguồn lực được làm giàu hợp pháp để tối ưu hóa lợi ích cá nhân. Đó chính là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Lợi ích của mỗi người, của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Trong nền kinh tế thị trường, phân phối cần phải tuân thủ những quy luật vốn có của thị trường, như cạnh tranh, giá cả, cung - cầu, tối ưu hóa lợi nhuận,... Nhờ vào khả năng phân tích và dự báo các thông tin thị trường, đưa ra các quyết định lựa chọn và đầu tư phù hợp, huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả trong hoạt động,... để tối ưu hóa lợi ích riêng. Như vậy, các chủ thể có thể làm giàu hợp pháp, phù hợp với quy luật thị trường.
Thứ năm, hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi của giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả”(7).
Từng bước hoàn thiện chính sách tiền lương và xây dựng chế độ tiền lương linh hoạt trong khu vực công, khu vực doanh nghiệp theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là yêu cầu tất yếu hiện nay. Trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp, trên cơ sở xác định rõ biên chế, cần thực hiện khoán quỹ lương theo khối lượng công việc. Trong khu vực doanh nghiệp, tiền lương được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa người lao động với người sử dụng lao động, phù hợp với quan hệ cung - cầu sức lao động trên thị trường và bảo đảm tuân thủ quy định của pháp luật về tiền lương. Phấn đấu nâng cao tiền lương trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và người lao động.
Tiền lương, tiền công phải thực sự là giá cả của sức lao động, điều đó đòi hỏi phải tính đúng, tính đủ giá trị sức lao động để làm cơ sở cho việc xác định mức tiền lương, tiền công. Mức lương cho người lao động phải thể hiện trình độ học vấn, tay nghề, mức độ đóng góp vào quá trình lao động sản xuất. Mức lương tối thiểu phải bảo đảm tính toán đầy đủ các yếu tố cần thiết của quá trình tái sản xuất sức lao động. Mức sống của người lao động phải phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Cần bảo đảm cho người lao động nhận được tiền công đầy đủ cho những cống hiến mà họ đã bỏ ra. Điều đó không chỉ có ý nghĩa đối với người lao động, mà còn có ý nghĩa với xã hội để bảo đảm mục tiêu công bằng xã hội.
Tiền lương, tiền công là loại hình thu nhập cơ bản nhất của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động. Nguồn thu nhập này bảo đảm một phần cho trang trải chi phí sinh hoạt hằng ngày và phần còn lại cho dự phòng, tích lũy cho cuộc sống. Đảng và Nhà nước cần phải quan tâm việc hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công như một trong những yêu cầu hoàn thiện quan hệ phân phối thu nhập trong xã hội, phù hợp với cơ chế thị trường. Thực hiện tốt chính sách tiền lương, tiền công góp phần bảo đảm điều kiện vật chất cho phát huy nhân tố con người, đồng thời thực hiện tốt hơn công bằng, tiến bộ xã hội./.
------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I,
tr. 128
(2) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản số 966, tháng 5-2021, tr. 8
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 131
(4), (5) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tlđd, tr. 8
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 150
Quan điểm mới về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng  (18/09/2021)
Định hướng giải pháp thực hiện ba đột phá chiến lược theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng  (13/08/2021)
Những điểm mới về kinh tế trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng  (31/07/2021)
Những nhận thức lý luận mới về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng  (24/07/2021)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển