Đảng bộ và nhân dân tỉnh An Giang học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Tôn Đức Thắng
TCCS - Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Bác Tôn là người cộng sản kiên trung, người bạn thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một chiến sĩ thuộc lớp đầu của phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc. Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp vẻ vang của mình, dù gặp muôn vàn gian nan, thử thách, nhưng Bác Tôn luôn nêu cao tinh thần cách mạng, giữ trọn niềm tin tất thắng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Người sống khiêm tốn, giản dị, nhân hậu, thủy chung, mẫu mực về đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, mãi là tấm gương sáng để các thế hệ sau noi theo.
Bác Tôn - tấm gương mẫu mực về lòng yêu nước nhiệt thành, đạo đức cách mạng trong sáng
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Tôn luôn phấn đấu, cống hiến, hy sinh vì lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân. Bác là người con ưu tú của Tổ quốc, người yêu nước vĩ đại, người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết toàn dân tộc, người lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, người chiến sĩ cộng sản quốc tế chân chính, một nhân cách lớn. Bác là người công nhân đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Sao vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta; là người Việt Nam đầu tiên được Ủy ban giải thưởng hòa bình quốc tế Lê-nin của Liên Xô trao tặng Giải thưởng Lê-nin Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc; nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô đã tặng Bác Tôn Huân chương Lê-nin - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Liên Xô.
Dù Bác Tôn đã đi xa, nhưng hình ảnh của Bác vẫn khắc sâu trong tâm trí đồng bào, đồng chí cả nước và nhân dân tỉnh An Giang, với giọng nói ấm áp, tình cảm mộc mạc, chan chứa ân tình; phong cách công nhân khiêm tốn, giản dị. Ước nguyện của Bác Tôn về một quê hương An Giang giàu đẹp đã và đang được các lớp con cháu trong tỉnh không ngừng phấn đấu thực hiện. Kỷ niệm 133 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20-8-1888 - 20-8-2021), chúng ta cùng tưởng nhớ, nguyện học tập và làm theo tấm gương đạo đức và những phẩm chất cao đẹp của Bác.
Thứ nhất, Bác Tôn luôn có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo.
Tư duy này được hình thành ở Bác Tôn từ thời niên thiếu. Vốn xuất thân trong một gia đình trung nông, cùng với tư chất thông minh nên có đầy đủ điều kiện học tập để trở thành thầy thông, thầy ký ở xã hội đương thời, nhưng Bác đã không chọn con đường bằng phẳng, thuận lợi ấy. Sinh ra, lớn lên trong bối cảnh thực dân Pháp xâm lược và áp đặt ách thống trị ở nước ta, khắp từ Bắc chí Nam, các chí sĩ yêu nước và nhân dân nổi dậy, đứng lên chống thực dân Pháp. Các cuộc khởi nghĩa này đã tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của Bác Tôn. Mặc dù rất kính trọng, song Bác Tôn không đi theo con đường của những lãnh tụ của các cuộc khởi nghĩa (như Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Hữu Huân...), mà lựa chọn con đường riêng của mình, đó là đến Sài Gòn học nghề. Có thể nói, đây là sự lựa chọn đầy khó khăn, tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc đời của Bác trong việc tìm hướng đi mới nhằm cứu dân, cứu nước. Cũng từ đây, Bác Tôn mang hành trang yêu nước đến với phong trào công nhân, đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trở thành người cộng sản.
Trong cuộc đời hoạt động của mình, Bác Tôn trải qua nhiều cương vị, giữ nhiều vị trí quan trọng trong Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... Trước muôn vàn khó khăn, gian khổ, ở những thời điểm vô cùng ác liệt của phong trào cách mạng và phải đối mặt với những nguy nan cận kề, nhưng với sự linh hoạt, sáng tạo, nhiệm vụ khó khăn nào cũng được Bác hoàn thành xuất sắc. Đề cập đến nguyên nhân thắng lợi ngày 30-4-1975, Bác Tôn nhấn mạnh: Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ..., và chính Bác là một trong những lãnh đạo điển hình cho tư duy này.
Học tập tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Bác Tôn, chúng ta cần chấp hành tốt các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; khi thực hiện chủ trương, chính sách, phải tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc, đồng thời, cần có sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo phù hợp với tình hình thực tiễn; đặc biệt, cần nêu cao tính độc lập, tự chủ, chủ động trong công tác, nỗ lực vượt khó vươn lên làm chủ hoàn cảnh, làm chủ công việc.
Thứ hai, Bác Tôn là tấm gương quên mình vì nhiệm vụ.
Với tư chất thông minh, ngay từ khi làm thợ học việc, Bác Tôn đã thấy được tình trạng bóc lột dã man, đầy rẫy bất công của chế độ thực dân, phong kiến. Từ đó, Bác đã vận động các khóa học sinh bỏ học, lính, thợ phản đối chế độ lao động quá sức, đói khổ, chống bắt lính, đánh đập, cúp phạt, yêu cầu tăng lương, giảm giờ làm việc... Điều này không phải ai cũng nhận thức đầy đủ và có thể đứng ra kêu gọi, được mọi người hưởng ứng. Quyết định rời quê hương lên Sài Gòn, đến với giai cấp công nhân Việt Nam đang hình thành, bước đầu thể hiện sự tiến bộ về nhận thức, khi Bác đã thấy được vai trò của công nhân - một lực lượng tiên tiến có khả năng lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Hành động kéo cờ phản chiến trên chiến hạm France, ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga đã thể hiện tầm nhìn sâu rộng của Bác, khi nhận thấy rõ chủ nghĩa đế quốc, thực dân là lực lượng phản tiến bộ; đồng thời, nhận thức được xu thế phát triển của thời đại là hướng tới xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công.
Với nhiều hoạt động tích cực trong phong trào công nhân và từ quá trình tự tìm tòi nghiên cứu của bản thân, Bác Tôn đã gia nhập đội ngũ những người đầu tiên của Việt Nam đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Không những thế, Bác còn tích cực truyền bá lý tưởng cộng sản và tinh thần yêu nước cho nhiều người. Trong Hồi ký, Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh viết: “Thấy chúng tôi còn trẻ mà đã giác ngộ cách mạng thì Bác rất thương. Bác bắt đầu giáo dục cho tôi và hai người bạn hiểu thế nào là cách mạng, thế nào là chủ nghĩa cộng sản. Bác rất hiền. Bác không những thương chúng tôi mà còn thương các bạn tù khác, kể cả tù thường phạm. Khi họ đi làm về, sau bữa ăn, bị nhốt ở sam thì Bác thường gần gũi họ, giảng giải cho họ những điều sơ đẳng nhất về chủ nghĩa cộng sản, về lòng yêu nước và động viên họ phải can đảm lên, cố chịu đựng rồi khi ra tù sẽ tiếp tục làm cách mạng”(1).
Dù phải đối diện với hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, nhưng Bác luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, thể hiện tầm cao trí tuệ, sự linh hoạt, sáng tạo trong mọi thời điểm khó khăn, thử thách. Trong Điếu văn do đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội đọc tại Lễ truy điệu Bác Tôn, có đoạn viết: “Bất kỳ ở cương vị công tác nào, mặc dù tuổi cao, đồng chí luôn luôn phấn đấu quên mình để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho”(2).
Học tập Bác Tôn, chúng ta phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước, với nhiều vấn đề rất mới, chưa có tiền lệ đặt ra, phải vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm. Cần thường xuyên nghiên cứu, học tập trau dồi và nắm vững lý luận để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, thực hiện thắng lợi các phong trào hành động cách mạng, qua đó thiết thực bảo vệ sự trong sáng, tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đấu tranh không khoan nhượng với các luận điệu xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Thứ ba, Bác Tôn tiêu biểu cho lòng yêu nước, thương dân, một lòng một dạ hy sinh vì nước, vì dân.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, được nuôi dưỡng và hấp thụ truyền thống yêu nước của quê hương, của dân tộc, lại tận mắt chứng kiến cảnh áp bức, bóc lột, bất công, tàn bạo của chế độ thực dân, phong kiến, ở Bác Tôn đã sớm có tinh thần yêu nước, thương dân và tinh thần đó càng được hun đúc và nhân lên gấp bội khi Bác trở thành thủ lĩnh của các phong trào yêu nước, phong trào công nhân ở Sài Gòn, cũng như khi Bác hoạt động ở nước ngoài…
Từ người thợ, người thủ lĩnh phong trào công nhân đến khi trở thành Chủ tịch nước, Bác Tôn luôn nhân ái, nghĩa tình, yêu thương mọi người. Bác căn dặn: Phải làm cho dân yêu, dân tin, dân trọng. Vì có được dân yêu, dân tin, dân trọng thì công việc gì cũng thành công.
Học tập tinh thần yêu quê hương, yêu đất nước, trọng dân, thương dân của Bác, chúng ta phải luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực sự trọng dân, gần gũi với nhân dân; làm cho đất nước giàu mạnh, mọi người dân được ấm no, hạnh phúc. Kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu, vi phạm dân chủ; ngăn chặn, đẩy lùi nạn tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng.
Thứ tư, Bác Tôn là một tấm gương tiêu biểu của sự kiên cường, bất khuất, tuyệt đối trung thành, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn, giản dị.
Bác Tôn ít viết, ít nói về đạo đức cách mạng. Nhưng hành động tiên phong, mẫu mực của Bác đã thể hiện đầy đủ tinh thần đạo đức cách mạng, được toàn Đảng, toàn dân và bạn bè thế giới công nhận.
Bác Tôn tham gia phong trào yêu nước, phong trào công nhân với tất cả nhiệt huyết cách mạng và lòng dũng cảm khi còn rất trẻ. Mặc dù bị tù đày khổ sai, luôn đối diện với đòn roi, đói khát và cả cái chết, Bác vẫn không chút nao núng, giữ vững khí tiết người cộng sản, kiên cường, không bị khuất phục. Vừa thoát khỏi nhà tù thực dân, Bác nhanh chóng tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hơn 37 năm giữ những cương vị quan trọng trong Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam..., Bác Tôn luôn tận tâm, nỗ lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, luôn trung thành với mục tiêu, con đường cách mạng mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Yêu lao động, liêm khiết, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”,… là những đức tính vô cùng quý báu của Bác Tôn. Trên cương vị Chủ tịch nước, Bác luôn sắp xếp công việc một cách khoa học, tôn trọng kỷ luật để mang lại hiệu quả cao nhất. Những đồng chí từng tiếp xúc và sau này có điều kiện làm việc với Bác Tôn đều có chung một nhận xét: Phong cách của Bác không hề thay đổi, vẫn là những đức tính của người công nhân, với phong cách giản dị, chân thành, trong sáng, gần gũi, hòa đồng với mọi người. Bác Tôn thích ăn những món ăn dân dã quê nhà, mặc những bộ quần áo giản dị, không thích lối sống phô trương, sang trọng, xa hoa lãng phí. Khiêm tốn, giản dị đã trở thành nếp sống, phong cách sống, thể hiện trong tất cả các mối quan hệ, trong mọi hoạt động, giao tiếp và ứng xử hằng ngày của Bác.
Tại lễ mừng thọ Bác Tôn tròn 70 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần kiệm liêm chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”(3).
Trong Điếu văn truy điệu Bác Tôn có đoạn viết: “Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là một tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tụy; về tinh thần anh dũng, bất khuất; về đức tính khiêm tốn, giản dị. Toàn thể đồng chí và đồng bào chúng ta rất tự hào về sự nghiệp và đạo đức cách mạng của đồng chí. Chúng ta quyết mãi mãi noi gương cao cả của đồng chí để khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng”(4).
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Tôn, chúng ta phải tích cực hăng say lao động, sản xuất, công tác; phải luôn suy nghĩ cách làm hay, sáng tạo để nâng cao năng suất, chất lượng lao động. Kiên quyết chống bệnh chây lười, làm việc qua loa, đại khái; chống thói háo danh, ham chức, tham quyền, cơ hội, thực dụng, tư lợi, chủ nghĩa cá nhân. Phải tận tâm, tận lực phục vụ Đảng, Tổ quốc, vì cuộc sống ấm no và hạnh phúc của nhân dân.
Thứ năm, Bác Tôn là người thực hành tiêu biểu chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, của Bác Hồ, là chiến sĩ cộng sản quốc tế kiên trung.
Bác Tôn là biểu tượng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ta. Với 27 năm giữ những trọng trách: Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và hơn 10 năm trên cương vị Chủ tịch nước, Người đã để lại cho Đảng và nhân dân ta những kinh nghiệm quý báu, những bài học sâu sắc về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng ta khẳng định: “Đồng chí là người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh”(5).
Ở Bác Tôn, tinh thần yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với tình cảm quốc tế trong sáng, thủy chung. Xuất phát từ tình yêu thương con người, yêu thương những người bị áp bức, bóc lột, yêu dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, Bác coi sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của các nước cũng như của dân tộc mình. Bác Tôn là một trong những người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga, Cách mạng Trung Quốc. Với những cống hiến vô cùng to lớn đối với cách mạng thế giới, Bác Tôn vinh dự là người Việt Nam đầu tiên được trao tặng Giải thưởng Lê-nin Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Tôn, chúng ta quyết tâm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Huy động sức mạnh tổng hợp của mọi tầng lớp nhân dân để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất trong các cấp ủy, xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh làm hạt nhân để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa, được xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Đảng bộ và nhân dân tỉnh An Giang học tập và làm theo tấm gương Chủ tịch Tôn Đức Thắng
Tỉnh An Giang tự hào là quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Khắc ghi công lao của Người, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh An Giang đã tích cực lao động, học tập, sáng tạo, có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc. Trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng bộ và nhân dân tỉnh An Giang đã quán triệt, vận dụng và cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng qua các nhiệm kỳ phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương.
Trong điều kiện xuất phát điểm rất thấp sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tỉnh An Giang phải đương đầu với cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc, thường xuyên đối phó với thiên tai, ngập lụt, sạt lở với nhiều thiệt hại nặng nề về tính mạng, tài sản của nhân dân. Nhưng với ý chí vươn lên mạnh mẽ, không lùi bước trước khó khăn, thử thách, các thế hệ lãnh đạo, cán bộ, đảng viên và nhân dân tỉnh An Giang đã đoàn kết một lòng, tập trung khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh đưa quê hương Bác Tôn vượt lên nghèo khó. Từ một tỉnh thuần nông với giá trị sản xuất thấp, An Giang đã trở thành một trong các tỉnh đi đầu trong công cuộc đổi mới, với nhiều đột phá, giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất(6), tạo ra những bước phát triển quan trọng, đặc biệt là trong nông nghiệp. Từ ngưỡng thiếu lương thực, với sản lượng lúa chỉ khoảng 850 nghìn tấn/năm vào năm 1986, An Giang trở thành tỉnh đầu tiên có sản lượng lương thực đạt 3 triệu tấn/năm vào năm 2007, góp phần bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu thu ngoại tệ cho quốc gia.
Ghi nhận những thành tựu đáng tự hào trong kháng chiến và trong thời kỳ đổi mới, Đảng bộ, quân và dân tỉnh An Giang vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng và phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Những năm gần đây (2015 - 2020), mặc dù chịu tác động không nhỏ của tình hình chính trị, kinh tế thế giới và trong nước, cùng với ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu, thiên tai, sạt lở, dịch bệnh…, nhưng toàn Đảng bộ, quân và dân tỉnh An Giang đã phát huy truyền thống đoàn kết, năng động, sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tỉnh thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu chủ yếu mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X đề ra. Kinh tế của tỉnh tăng trưởng qua từng năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh đạt 5,25% (giai đoạn 2010 - 2015 đạt 5,07%)(7). Các chỉ số cải cách hành chính, quản trị và hành chính công, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của An Giang đều tăng(8). Chương trình xây dựng nông thôn mới của tỉnh hoàn thành sớm 1 năm so chỉ tiêu Nghị quyết (có 61 xã và 3 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn). Đời sống người dân không ngừng được cải thiện, GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt trên 46,8 triệu đồng (tăng 16 triệu đồng so với năm 2015).
Bên cạnh đó, An Giang luôn quan tâm thực hiện đồng bộ các chính sách phúc lợi, an sinh xã hội, trước hết là giáo dục, y tế, việc làm, giảm nghèo và nhà ở. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều của tỉnh đến năm 2020 giảm còn 1,93% (giảm bình quân 1,5%/năm). Giáo dục - đào tạo phát triển về quy mô, chất lượng(9); mạng lưới trường, lớp được đầu tư rộng khắp; công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng; cơ sở vật chất phục vụ khám, chữa bệnh được tăng cường; nguồn nhân lực y tế phát triển cả về số lượng và chất lượng; nâng cao năng lực y tế dự phòng, ngăn chặn nhiều loại dịch bệnh nguy hiểm, nhất là phòng, chống dịch bệnh COVID -19. Các chỉ tiêu về sức khỏe cộng đồng được cải thiện(10). Huy động mọi nguồn lực xã hội để thực hiện các chính sách hỗ trợ cho người dân vùng khó khăn, các đối tượng bị ảnh hưởng bởi thiên tai, sạt lở, hộ chính sách, hộ nghèo… góp phần tạo nên nét văn hóa “an sinh xã hội vì cộng đồng” mang đậm dấu ấn riêng của tỉnh An Giang. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đã và đang bùng phát mạnh, làm tổn thất to lớn đến tính mạng, sức khỏe của nhân dân và tác động tiêu cực tới phát triển kinh tế - xã hội, nhân dân An Giang đã phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, chia sẻ, giúp đỡ nhau chống chọi với dịch bệnh. Nhiều nghĩa cử cao đẹp đã xuất hiện, như “bếp ăn không đồng”, “cửa hàng không đồng”, “chuyến xe không đồng” và nhiều tập thể, cá nhân đã tự nguyện đóng góp tài chính, phương tiện cho công tác phòng, chống dịch bệnh, thể hiện tinh thần đoàn kết nhân ái của người dân An Giang và của dân tộc ta.
Quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh được giữ vững. Khu vực phòng thủ được xây dựng vững chắc, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội, nhất là vùng biên giới, vùng dân tộc. Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị thực hiện thường xuyên, hiệu quả. Phương thức lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh có nhiều đổi mới, phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Tổ chức bộ máy được nâng cao về chất lượng, tinh gọn, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả(11)…
Trong giai đoạn hiện nay (2021 - 2025), với phương châm “Dân chủ - Đoàn kết - Khát vọng - Phát triển”, tỉnh An Giang tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng hào hùng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, khát vọng phát triển, xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị tỉnh trong sạch, vững mạnh, dân chủ, đổi mới, sáng tạo; giữ vững quốc phòng, an ninh; khai thác tốt lợi thế và tiềm năng, tập trung thực hiện các khâu đột phá(12), tạo động lực mới để đến năm 2025 kinh tế An Giang thuộc nhóm đầu khu vực đồng bằng sông Cửu Long và đạt mức trung bình của cả nước.
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh An Giang nguyện sống, chiến đấu, công tác, học tập theo gương Chủ tịch Tôn Đức Thắng, cùng đoàn kết một lòng, góp phần xây dựng quê hương An Giang ngày càng giàu đẹp, như sinh thời Bác Tôn hằng mong muốn./.
-----------------------
(1), (2) Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 27, 16
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 520
(4), (5) Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết (Hồi ký), Sđd, tr. 16
(6) Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ IV Đảng bộ tỉnh An Giang (tháng 10-1986) xác định chủ trương phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn (gọi là “Tư tưởng tam nông”), củng cố tập đoàn sản xuất, đưa ruộng đất, máy móc nông nghiệp về hộ nông dân, lấy hộ nông dân làm đơn vị sản xuất cơ bản; giao đất hoang hóa cho gia đình và tập thể, xóa khái niệm xâm canh, tạo điều kiện khai thác các vùng hoang hóa, miễn thuế; khôi phục quyền sử dụng đất, cho phép sang nhượng và kế thừa quyền sử dụng đất; cho nông dân vay vốn bằng cả hai loại hình thế chấp và tín chấp; Chương trình khai thác tứ giác Long Xuyên (năm 1988) nhằm chuyển lúa mùa nổi sang lúa tăng vụ và lúa cao sản để tăng nhanh sản lượng lương thực; Chương trình khuyến nông (năm 1989) giúp người nông dân có trình độ khoa học - kỹ thuật, làm chủ có hiệu quả trên mảnh đất của mình; Chương trình phát triển nông thôn (năm 1992)…
(7) Nông, lâm thủy sản tăng 2,3%; công nghiệp - xây dựng tăng 8,23%; dịch vụ tăng 6,85%
(8) Chỉ số cải cách hành chính (PAR-Index): Năm 2016 xếp hạng 36 so với các tỉnh, thành phố trong cả nước; năm 2017, năm 2018 hạng 8; năm 2019 hạng 11. Chỉ số quản trị và hành chính công (PAPI): Năm 2016 hạng 34; năm 2017 hạng 18; năm 2018 hạng 25; năm 2019 hạng 21. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI): Năm 2016 hạng 38; năm 2017 hạng 32; năm 2018 hạng 28; năm 2019 hạng 21
(9) Tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông đứng trong nhóm 10 tỉnh, thành phố đứng đầu cả nước và đứng đầu đồng bằng sông Cửu Long 4 năm liền (2017 - 2020)
(10) Tuổi thọ trung bình người dân trong tỉnh tăng từ 73,6 tuổi năm 2015 lên 74,4 tuổi năm 2019. Năm 2020, số bác sĩ/vạn dân ước đạt 9 bác sĩ (năm 2015 đạt 6,13). Số giường bệnh/vạn dân đạt 26 giường (năm 2015 đạt 18,14 giường). Mức giảm tỷ lệ sinh hằng năm đạt 0,05%, tỷ số giới tính khi sinh (số bé trai/bé gái) duy trì ở mức dưới 109%, tỷ lệ phụ nữ sinh tại cơ sở y tế đạt gần 100%
(11) Mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp đã thực hiện ở 132/156 xã, phường, thị trấn và 4/11 đơn vị cấp huyện (Long Xuyên, Châu Đốc, Châu Phú, Tri Tôn). Duy trì 888/888 khóm, ấp thực hiện mô hình bí thư chi bộ đồng thời là trưởng khóm, ấp.
Ở cấp tỉnh, đã thực hiện mô hình Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy đồng thời là Giám đốc Sở Nội vụ.
Ở cấp huyện đã thực hiện các mô hình sau:
- Trưởng ban tuyên giáo đồng thời là giám đốc trung tâm bồi dưỡng chính trị, thực hiện ở 11/11 huyện, thị xã, thành phố.
- Trưởng ban tổ chức cấp ủy cấp huyện đồng thời là trưởng phòng nội vụ, thực hiện ở 4/11 huyện, thị xã, thành phố (Long Xuyên, Châu Phú, Chợ Mới, Châu Thành).
- Chủ nhiệm ủy ban kiểm tra đồng thời là chánh thanh tra cấp huyện, thực hiện ở 2/11 huyện, thị xã, thành phố (Long Xuyên, Châu Phú).
- Trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp huyện, thực hiện ở 9/11 huyện, thị xã, thành phố (Long Xuyên, Châu Đốc, An Phú, Châu Phú, Châu Thành, Chợ Mới, Phú Tân, Tri Tôn, Tịnh Biên)
(12) 1- Đầu tư kết cấu hạ tầng, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông phục vụ phát triển công nghiệp và du lịch; 2- Nâng cao năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ; cải thiện hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; 3- Cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo nhằm phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên địa bàn
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển