Xu hướng tự chủ chiến lược trong quan hệ quốc tế hiện nay
TCCS - Trong những năm gần đây, mặc dù hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới, song các nhân tố khó lường kèm theo nguy cơ, thách thức cũng có xu hướng gia tăng, nhất là những hệ quả bất lợi, đa chiều từ xu hướng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Để ứng phó với tình hình mới, các nước dù lớn hay nhỏ hiện nay đề cập nhiều hơn tới khái niệm “tự chủ chiến lược”, thậm chí xác định đây là phương châm chủ đạo, lâu dài trong việc hoạch định chính sách đối ngoại.
Tự chủ chiến lược và những nhân tố tác động đến tự chủ chiến lược trong quan hệ quốc tế
Từ góc độ ngôn ngữ, theo từ điển Oxford (năm 2022), “chiến lược” (strategic) liên quan đến việc nhận diện các mục tiêu hay lợi ích lâu dài và các công cụ để đạt được các mục tiêu đó; còn “tự chủ” (autonomy) phản ánh khả năng tự quản trị, sự độc lập, không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài. Như vậy, theo cách sơ lược nhất, có thể hiểu “tự chủ chiến lược” (strategic autonomy) chỉ sự độc lập, tự lực của một chủ thể trong việc xác định cũng như thực hiện các mục tiêu và lợi ích quan trọng, dài hạn.
Trong quan hệ quốc tế, nhiều chuyên gia, học giả đã khái quát hóa và đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về tự chủ chiến lược. Theo học giả người Ấn Độ X. Ca-ly-an-ra-ra-man (S. Kalyanraraman), tự chủ chiến lược phản ánh khả năng của một quốc gia trong việc theo đuổi, triển khai chính sách đối ngoại phục vụ lợi ích quốc gia và các ưu tiên đã xác định mà không bị ràng buộc, tác động bởi bất kỳ quốc gia nào khác(1). Nói một cách ngắn gọn như nhà báo Ấn Độ Xri-moi Ta-lúc-đa (Sreemoy Talukdar), tự chủ chiến lược là việc các nước đưa ra những lựa chọn chỉ “đơn thuần dựa trên lợi ích quốc gia”(2). Tuy nhiên, tự chủ chiến lược không có nghĩa là tự cô lập, hay theo đuổi chính sách biệt lập. Trên thực tế, tự chủ chiến lược trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn hiện nay phản ánh sự độc lập của một quốc gia trong việc lựa chọn các đối tác, tham gia những thỏa thuận hợp tác để bảo vệ và thực hiện các mục tiêu, lợi ích một cách nhanh chóng, hiệu quả hơn.
Một số học giả khác nhấn mạnh nhân tố giá trị và tiềm lực như một biểu hiện của tự chủ chiến lược. Học giả người I-ta-li-a Na-than-li-ơ Tốc-xi (Nathalie Tocci) - được coi là một trong các chuyên gia đầu tiên đề cập tới khái niệm tự chủ chiến lược của châu Âu, cho rằng - tự chủ chiến lược “là việc thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược trong khi duy trì, bảo vệ được các nguyên tắc, chuẩn mực và giá trị của chính mình”(3). Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, một quốc gia có tính tự chủ chiến lược cao nghĩa là quốc gia đó có khả năng thiết lập, điều chỉnh và thực thi các quy tắc, “luật chơi” quốc tế, thay vì chỉ tuân thủ thụ động “luật chơi” do người khác đặt ra(4).
Trong khi đó, nhóm tác giả Bác-ba-ra Líp-pớt (Barbara Lippert), Ni-cô-lai vôn On-đa-da (Nicolai von Ondarza) và Vôn-cơ Pi-thơ (Volker Perthes) trong nghiên cứu “Tự chủ chiến lược châu Âu: Chủ thể, các vấn đề, xung đột và lợi ích” nhận định, tự chủ chiến lược dùng để chỉ khả năng của một chủ thể trong việc định hình các ưu tiên và có đủ sức mạnh tổng hợp về thể chế, chính trị, vật chất để tự thực hiện các ưu tiên, quyết định đó mà không bị ảnh hưởng bởi bên thứ ba. Chia sẻ quan điểm này, học giả I-van La-cơ-xma-na (Evan Laksmana) thuộc Viện Nghiên cứu chiến lược và quốc tế In-đô-nê-xi-a cho rằng, một trong các nhân tố tác động trực tiếp đến sự tự chủ chiến lược của một quốc gia về đối ngoại là yếu tố sức mạnh tổng hợp quốc gia. Trong thế giới lưỡng cực hay đa cực, nhất là dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, tự chủ chiến lược có tính tương đối. Về mặt lý thuyết, chỉ có siêu cường trong thế giới “đơn cực” mới thật sự có tự chủ chiến lược tuyệt đối, bởi vì chỉ có siêu cường mới có sức mạnh vượt trội cả về kinh tế, quân sự, công nghệ và “sức mạnh mềm” để kiềm chế, đối trọng được các áp lực đến từ những quốc gia khác(5).
Như vậy, các quan niệm về tự chủ chiến lược trong quan hệ quốc tế cho đến nay đều cơ bản nhấn mạnh các thành tố chính là:
1- Sự độc lập của một quốc gia về ý chí (trong việc đề ra lợi ích, mục tiêu, giá trị) và hành động (kiên định triển khai và bảo vệ các biện pháp để đạt được mục tiêu, lợi ích và giá trị đã đề ra); 2- Sự tích cực, chủ động trong triển khai đối ngoại, tập hợp lực lượng và thích ứng, định hình “luật chơi” để tạo dựng môi trường chiến lược thuận lợi nhất; 3- Tối đa hóa sức mạnh tổng hợp, trong đó nội lực đóng vai trò quyết định của một quốc gia để bảo vệ, triển khai hiệu quả các chiến lược, chính sách.
Từ các thành tố chính về khái niệm, có thể thấy để có khả năng tự chủ chiến lược, trước tiên, một quốc gia cần có ý chí chính trị và sức mạnh tổng hợp để triển khai các quyết tâm của mình. Theo học giả Phrê-đê-rích Mô-rô (Frédéric Mauro), công thức lý tưởng tạo nên tự chủ chiến lược của một quốc gia bao gồm đồng thời cả ba yếu tố ý chí chính trị, khả năng tự quyết định và khả năng hành động. Đồng quan điểm với học giả Phrê-đê-rích Mô-rô, học giả Xven Bi-xcốp (Sven Biscop) cho rằng, một quốc gia dù có sức mạnh tổng hợp mạnh đến đâu, song nếu thiếu sự nhận thức, ý chí về tự chủ thì sẽ không bao giờ tự quyết định hoặc hành động một cách tự chủ được(6). Trên thực tế, không ít quốc gia tầm trung có sức mạnh tổng hợp quốc gia hạn chế song ngày càng thể hiện được các quyết định độc lập dựa trên cơ sở lợi ích quốc gia của mình, cho dù các quyết định đó có thể gặp phải sức ép lớn từ các cường quốc khác.
Cùng với ý chí chính trị và khả năng tự quyết, thì sức mạnh, nguồn lực của một quốc gia là yếu tố quyết định tới việc hiện thực hóa các quyết định, mục tiêu đề ra(7). Sức mạnh tổng hợp quốc gia (bao gồm “sức mạnh cứng”, “sức mạnh mềm”) càng lớn sẽ giúp các quốc gia khẳng định chỗ đứng của mình trên trường quốc tế, tối đa hóa khả năng hành động độc lập và bảo vệ hiệu quả giá trị, lợi ích của mình trên thế giới(8). Tuy nhiên, sức mạnh tổng hợp quốc gia của một chủ thể trong quan hệ quốc tế không chỉ được biểu hiện qua các chỉ số “sức mạnh cứng”, như tăng trưởng kinh tế, mức độ đầu tư quân sự, mà còn là mức độ tự chủ, tự cường, tự chống chịu của chủ thể đó trong các lĩnh vực trọng yếu, nhất là trong tình huống xảy ra khủng hoảng, đứt gãy chuỗi cung ứng.
Bên cạnh các nhân tố chủ quan, chiều hướng phát triển của cục diện quốc tế, nhất là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, khủng hoảng của chủ nghĩa đa phương toàn cầu, khu vực, xu hướng đánh giá lại toàn cầu hóa, phong trào dân túy và dịch bệnh COVID-19 cũng là những nhân tố tác động lớn, đẩy nhanh hơn quá trình nhận thức và thúc đẩy các quốc gia tăng cường tự chủ chiến lược.
Khái niệm tự chủ chiến lược trên thực tế đã bắt đầu được đề cập đến khi Mỹ và Trung Quốc bước vào giai đoạn chuyển đổi trạng thái sang cạnh tranh từ nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma(9). Dù vậy, kể từ khi Mỹ xác định Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến lược hàng đầu” dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ Đô-nan Trăm đến nay, kéo theo tình trạng phân tách trên nhiều lĩnh vực công nghệ, thương mại, chuỗi cung ứng, những căng thẳng về ngoại giao - chính trị thì nhu cầu tự lực, tự cường trong các lĩnh vực trọng yếu trở nên cấp thiết hơn. Hiện nay, cuộc khủng hoảng Nga - U-crai-na và những hệ lụy về an ninh năng lượng, sự đứt gãy về đầu tư, tài chính và việc các nước lớn thúc đẩy tập hợp lực lượng mới càng làm cho tự chủ chiến lược trở thành một chủ đề, một xu hướng mới mà ngày càng nhiều quốc gia theo đuổi để tránh nguy cơ bị rơi vào thế kẹt và có thể xử lý hài hòa quan hệ giữa các nước lớn.
Bên cạnh đó, mặc dù toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển song do tác động của các phong trào dân túy, dân tộc cực đoan, một số mặt trái đã bị “phơi bày”, như chuỗi cung ứng cồng kềnh, sự nổi lên của các vấn đề an ninh phi truyền thống, như khủng hoảng nhập cư, an ninh mạng, khủng bố trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn biến phức tạp khiến các quốc gia, ngay cả các nước lớn cũng phải điều chỉnh, tìm cách cân bằng tốt hơn việc tận dụng các nguồn lực, lợi thế toàn cầu và bảo đảm mức độ tự lực cần thiết. Đặc biệt, dịch bệnh COVID-19 là chất xúc tác khiến cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn trở nên gay gắt hơn, đồng thời cho thấy rõ sự lệ thuộc của các nước vào các chuỗi cung ứng nước ngoài về dược phẩm, làm nảy sinh nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng do chính sách kiểm soát biên giới, đóng cửa nền kinh tế của các nước để đối phó với dịch bệnh COVID-19, thậm chí phục vụ mục tiêu cạnh tranh chiến lược. Chính vì vậy, nhu cầu tự chủ trong các lĩnh vực chiến lược liên quan đến sự sống còn của đất nước trong tình huống khủng hoảng trở nên cấp bách và quan trọng hơn đối với nhiều quốc gia.
Thực tiễn tự chủ chiến lược của một số quốc gia và tổ chức trên thế giới
Đối với Ấn Độ, trong suốt chiều dài lịch sử phát triển, Ấn Độ là một trong số ít các quốc gia thể hiện bản sắc riêng về đối ngoại, trong đó yếu tố tự cường, tự chủ chiến lược được thể hiện tương đối rõ nét. Học giả Xri-ram Châu-li-a (Sreeram Chaulia) nhận định, dù trong thời kỳ trật tự thế giới hai cực (1947 - 1991), đơn cực (1991 - 2008) - khi Mỹ bước vào một chu kỳ dài của sự suy thoái kinh tế và Trung Quốc dần tiếp cận Mỹ về sức mạnh tổng hợp, hay trật tự thế giới đa cực (hiện tại), nhu cầu tự chủ trong các lựa chọn chính sách đối ngoại của Ấn Độ vẫn tiếp tục được duy trì(10).
Trên cơ sở các phát biểu của chính giới Ấn Độ, nội hàm của khái niệm tự chủ chiến lược được định hình và phát triển theo thời gian. Sau Chiến tranh lạnh, nhất là sau các vụ thử vũ khí hạt nhân năm 1998, các quan chức Ấn Độ thường xuyên sử dụng khái niệm tự chủ chiến lược nhằm khẳng định việc không chấp nhận sức ép của các nước trước việc phát triển vũ khí hạt nhân vì lý do an ninh quốc gia. Trong bài phát biểu trước Quốc hội vào tháng 10-1999, Tổng thống Ấn Độ Cô-chi-rin Ra-man Na-ra-y-a-nan (Kocheril Raman Narayanan) khẳng định: “Ấn Độ duy trì cam kết đối với vấn đề giải giáp hạt nhân toàn cầu dựa trên nền tảng không phân biệt đối xử. Đồng thời, chính quyền Ấn Độ sẽ bảo đảm tự chủ chiến lược của đất nước dựa trên những quan ngại chính đáng về an ninh và đánh giá về môi trường an ninh quốc tế”(11).
Sau này, khái niệm tự chủ chiến lược được gắn trực tiếp nhiều hơn với các vấn đề đối ngoại. Trong bài phát biểu của Tổng thống Ấn Độ Pra-ti-bơ-ha Pa-tin (Pratibha Patil) tháng 8-2011 và các báo cáo đối ngoại của Quốc hội Ấn Độ, tự chủ chiến lược là nhân tố được nhấn mạnh đậm nét khi đề cập đến đường lối đối ngoại của Ấn Độ. Tư tưởng này được cụ thể hóa hơn trong phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ Xan-man Khu-sít (Salman Kurshid) tháng 11-2013, khi nhấn mạnh “trong quá khứ Ấn Độ duy trì chính sách không liên kết, hiện nay, Ấn Độ theo đuổi lập trường chiến lược về tự chủ”. Thủ tướng Ấn Độ Na-ren-đra Mô-đi sau đó đã có nhiều phát biểu giải thích rõ ràng hơn, cho rằng Ấn Độ đang chuyển từ chính sách không liên kết một cách thụ động trong quá khứ, trở thành một nước chủ động liên kết, hợp tác trong từng vấn đề; đồng thời, nhấn mạnh trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập ngày càng cao, việc “mở rộng đối tác chính là một biện pháp tự chủ chiến lược”(12). Trong bài diễn văn phát biểu tại Đối thoại Shan-gri La năm 2018, Thủ tướng Ấn Độ N. Mô-đi khẳng định chủ trương tự chủ chiến lược của Ấn Độ là việc thúc đẩy quan hệ đối tác ngày càng lớn mạnh với cả ba cường quốc Mỹ, Trung Quốc, Nga, hướng tới xây dựng thế giới đa cực. Tinh thần tự chủ chiến lược của Ấn Độ gần đây được thể hiện rõ nét trong Tầm nhìn của Ấn Độ về khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, khẳng định ủng hộ đa cực ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và trên thế giới, ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN, mong muốn tăng cường quan hệ với tất cả các nước lớn trên cơ sở “ba cùng”, đó là: cùng nhạy cảm về lợi ích của nhau, cùng tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi(13). Có thể thấy, đối với Ấn Độ, tự chủ chiến lược có nghĩa là nâng cao khả năng tự lựa chọn, quan hệ cân bằng với tất cả các nước lớn, linh hoạt tham gia các khuôn khổ, sáng kiến. Tự chủ chiến lược thực chất là thúc đẩy “đa liên kết” (multi-alignment) để ứng xử trong thế giới đa cực, cạnh tranh chiến lược, qua đó giúp giữ vững tinh thần cốt lõi của chính sách đối ngoại Ấn Độ là không liên kết(14).
Thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ trong những năm qua cũng thể hiện rõ tư duy trên về tự chủ chiến lược, nhất là cách ứng xử của Ấn Độ trong xử lý quan hệ với các nước lớn. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược nước lớn gia tăng, Ấn Độ khéo léo thúc đẩy hợp tác với từng nước trong các lĩnh vực có lợi ích, song duy trì nguyên tắc độc lập, không liên minh, liên kết và bảo vệ lập trường khi cần thiết. Chủ trương tự chủ chiến lược đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết đã giúp Ấn Độ giữ được, thậm chí gia tăng giá trị chiến lược trong sự nhìn nhận của tất cả các nước lớn, là nhân tố quan trọng được các bên chú trọng tranh thủ trên các phương diện lợi ích khác nhau, và là “nguồn cảm hứng” cho các chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của các nước trong và ngoài khu vực. Ấn Độ chủ động tham gia và đóng vai trò thành viên tích cực trong Nhóm “Bộ tứ” do Mỹ khởi xướng, công khai chia sẻ nhiều giá trị mà Mỹ thúc đẩy trong chiến lược với khu vực. Sự tham gia của Ấn Độ vào Nhóm “Bộ tứ” và mới đây là Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF) không những giúp Ấn Độ nâng cao vị thế quốc tế, phục vụ chính sách “hướng Đông”, mà còn đưa Ấn Độ trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng về kết cấu hạ tầng, năng lượng, thương mại, y tế cùng với các cường quốc phát triển hàng đầu, như Mỹ, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a. Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng tham gia tích cực và có chọn lọc vào một số cơ chế do Trung Quốc khởi xướng, như Nhóm các nền kinh tế lớn mới nổi (BRICS), nhằm tăng cường vị thế chiến lược trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc; đồng thời, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường của Ấn Độ tại khu vực châu Á. Trong lúc khéo léo thúc đẩy quan hệ với các nước lớn, Ấn Độ cũng thể hiện thái độ kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia, như tiếp tục hoàn tất tiếp nhận hệ thống phòng không S-400 từ Nga - đối tác quốc phòng truyền thống số 1 của Ấn Độ - bất chấp sức ép trừng phạt từ Mỹ. Ấn Độ cũng quyết định bỏ phiếu trắng hoặc phiếu chống trong một số dự thảo nghị quyết tại Liên hợp quốc liên quan đến “chiến dịch quân sự đặc biệt” của Nga tại U-crai-na; tiếp tục đẩy mạnh việc mua dầu thô từ Nga(15) và khẳng định không chính trị hóa các giao dịch dầu mỏ hợp pháp của Ấn Độ. Bên cạnh đó, Ấn Độ tăng cường tự chủ chiến lược trước Nga về nguồn cung vũ khí bằng cách đa dạng hóa, tăng tỷ trọng nhập khẩu vũ khí từ Mỹ để giảm sự phụ thuộc vào Nga về nguồn cung. Riêng 10 năm qua, từ năm 2012 - 2022, Ấn Độ đã nhập khoảng 13 tỷ USD khí tài quân sự của Mỹ, qua đó giảm tỷ lệ mua vũ khí, khí tài quân sự từ Nga xuống chỉ còn khoảng 50% - 60% tỷ trọng nhập khẩu vũ khí, khí tài từ nước ngoài của Ấn Độ(16). Mục tiêu của đa dạng hóa hợp tác quốc phòng là nhằm giúp Ấn Độ tăng cường tự chủ chiến lược về quốc phòng, tự phát triển công nghiệp quốc phòng. Ngày 2-9-2022, Thủ tướng Ấn Độ N. Mô-đi đánh giá việc Ấn Độ biên chế tàu sân bay nội địa đầu tiên Vikrant là ví dụ điển hình của tự chủ trong lĩnh vực quốc phòng của nước này trên cơ sở hợp tác công nghệ và mua máy bay tiêm kích của Nga, Pháp, Mỹ(17).
In-đô-nê-xi-a cũng là một trong những trường hợp được các chuyên gia, học giả quan tâm, đề cập đến nhiều khi nhắc tới cách hành xử theo hướng tự chủ chiến lược ở khu vực. Hầu hết các chuyên gia đều gắn tự chủ chiến lược của In-đô-nê-xi-a với chính sách cân bằng động (dynamic equilibrium) theo truyền thống liên kết(18) với tất cả các nước lớn, đề cao nguyên tắc Băng-đung về tự quyết về chính trị, bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ(19).
Trên thực tế, In-đô-nê-xi-a có cách ứng xử khá thực tế, năng động, linh hoạt trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược nước lớn gia tăng. Tận dụng việc coi trọng của các nước lớn, In-đô-nê-xi-a chủ động can dự nhằm tranh thủ các nguồn lực phát triển đất nước, dùng quan hệ với nước này để làm đòn bẩy với nước kia, thúc đẩy vai trò trung gian, hòa giải, cầu nối đối thoại; đồng thời, kiên định duy trì nguyên tắc, lập trường trong các vấn đề có lợi ích dù gặp phải sức ép. Đơn cử như, với Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a coi trọng quan hệ kinh tế - thương mại, sớm bày tỏ thiện chí và tham gia các sáng kiến trọng điểm về kinh tế đối ngoại của Trung Quốc, như Ngân hàng hạ tầng châu Á (AIIB), Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI). Tuy nhiên, việc coi trọng hợp tác kinh tế không có nghĩa In-đô-nê-xi-a sẽ nhân nhượng lợi ích của mình. Trong các thảo luận với phía Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a nhiều lần nhấn mạnh việc hợp tác trong BRI phải phù hợp với các lợi ích của In-đô-nê-xi-a trong chiến lược Trục hàng hải toàn cầu (GMF). Đối với vấn đề an ninh biển, bất chấp các sức ép từ Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a vẫn tiếp tục duy trì các dự án dầu khí tại vùng biển xung quanh quần đảo Natuna mà In-đô-nê-xi-a cho là thuộc vùng đặc quyền kinh tế hợp pháp của mình; đồng thời, chủ động hơn trong việc khẳng định lập trường ủng hộ luật pháp quốc tế tại Biển Đông dù khẳng định mình không phải là một bên tranh chấp. Với Mỹ, In-đô-nê-xi-a tận dụng thúc đẩy các lợi thế từ quan hệ đối tác chiến lược, nhất là việc nâng cao năng lực quân sự, phục vụ kế hoạch hiện đại hóa quốc phòng. Trong nhiều năm qua, Mỹ đã phê duyệt không ít thương vụ bán, hỗ trợ vũ khí, khí tài quân sự hiện đại, có giá trị lớn, tiến hành huấn luyện, tập trận, nâng cao năng lực thực thi pháp luật trên biển cho In-đô-nê-xi-a. In-đô-nê-xi-a cũng là quốc gia đầu tiên thúc đẩy Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ra Tuyên bố Tầm nhìn ASEAN về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (AOIP), chia sẻ nhiều quan điểm giá trị chiến lược khu vực của Mỹ, như tính mở, bao trùm, tôn trọng luật pháp quốc tế, ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN. Tuy nhiên, In-đô-nê-xi-a cũng thể hiện thái độ phản đối rõ ràng với việc Mỹ - Anh - Ô-xtrây-li-a thiết lập Thỏa thuận hợp tác an ninh ba bên (AUKUS), cho rằng thỏa thuận này sẽ châm ngòi cho cuộc chạy đua vũ trang và làm suy giảm ổn định của khu vực. Với tư cách nước chủ nhà Hội nghị cấp cao Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G-20), Tổng thống In-đô-nê-xi-a Giô-cô Uy-đô-đô đã triển khai ngoại giao trung gian hòa giải giữa Nga và U-crai-na với mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực và an ninh năng lượng, đồng thời thuyết phục Tổng thống Nga Vla-đi-mia Pu-tin và Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình nhận lời tham dự Hội nghị cấp cao G-20, được tổ chức tại In-đô-nê-xi-a vào tháng 11-2022.
Đối với Liên minh châu Âu (EU), tự chủ chiến lược ban đầu được đề cập trong các thảo luận của EU gắn liền với việc cần thúc đẩy năng lực quân sự. Thông cáo của Ủy ban Kinh tế - Xã hội Nghị viện EU (năm 2013) nhấn mạnh, “châu Âu cần có trách nhiệm đối với an ninh của chính mình và đối với hòa bình, ổn định của thế giới. Điều này đòi hỏi châu Âu cần có mức độ tự chủ nhất định, châu Âu cần là một đối tác tin cậy và có đủ khả năng hành động mà không cần phụ thuộc vào bên thứ ba”(20). Hội đồng châu Âu sau đó đã nâng tầm và cụ thể hóa các lĩnh vực cụ thể để tăng cường tính tự chủ của EU trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Chiến lược toàn cầu mới của EU (năm 2016) khẳng định, “tự chủ chiến lược là nhân tố quan trọng đối với mục tiêu bảo đảm hòa bình, an ninh bên trong và bên ngoài biên giới của các nước EU. Do vậy, EU sẽ tăng cường năng lực về quốc phòng, an ninh mạng, chống khủng bố, năng lượng. Một nền quốc phòng ổn định, đổi mới và cạnh tranh mang ý nghĩa sống còn đối với sự tự chủ chiến lược của EU”(21). Trước những thay đổi của tình hình thế giới, nhất là đại dịch COVID-19 bộc lộ nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng và cạnh tranh giữa các nước lớn gia tăng, nhu cầu tăng cường tự chủ chiến lược của EU trong các lĩnh vực khác bước đầu được quan tâm, chú trọng nhiều hơn. Đại diện cấp cao của EU về chính sách đối ngoại và an ninh Giô-xép Bô-ren (Josep Borell) nhiều lần nhấn mạnh, tự chủ chiến lược không nên chỉ được hiểu một cách hạn hẹp trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, như thương mại, tài chính và đầu tư, y tế(22). Điều này không đồng nghĩa với việc cổ xúy cho chủ nghĩa bảo hộ, mà là để bảo vệ độc lập chính trị, làm chủ các quyết định và tương lai của mình(23). Tháng 3-2022, Tuyên bố Véc-xây của Hội nghị thượng đỉnh bất thường của các nhà lãnh đạo châu Âu được tổ chức tại thành phố Véc-xây (Pháp), đã chỉ ra định hướng chiến lược mới cho hoạt động của EU(24), trong đó nhấn mạnh việc EU sẽ tăng cường tự chủ, giảm phụ thuộc, nhất là với các đối thủ cạnh tranh trên ba trụ cột: quốc phòng - an ninh, năng lượng và kinh tế.
Như vậy, chính sách tự chủ chiến lược của EU chú trọng việc thúc đẩy năng lực và giảm sự phụ thuộc của EU trong các lĩnh vực trọng yếu nhằm bảo đảm sự chủ động và độc lập trong các quyết sách, bao gồm đối ngoại. Trong thời gian qua, EU đã có nhiều nỗ lực nhằm hiện thực hóa chính sách này. Một ví dụ điển hình là việc EU thông qua Định hướng chiến lược về an ninh và quốc phòng (tháng 3-2022), quyết định thiết lập lực lượng phản ứng nhanh gồm 5.000 quân giúp độc lập triển khai trong các tình huống khủng hoảng(25). Cho đến nay, đã có 21 quốc gia thành viên của EU, đồng thời là thành viên của NATO, cam kết dành 2% GDP cho chi tiêu quân sự vào năm 2024. Đa số chuyên gia cho rằng, việc tự chủ hơn về quốc phòng sẽ giúp EU chủ động, linh hoạt xử lý các khủng hoảng an ninh quốc tế, giảm phụ thuộc vào quá trình thông qua quyết sách vốn mất nhiều thủ tục của NATO. Nhằm giảm thiểu tối đa các rủi ro đến từ nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng cũng như sự phụ thuộc vào các đối thủ cạnh tranh, EU cũng tích cực phối hợp với đồng minh là Mỹ; đồng thời, đang thúc đẩy hợp tác với các đối tác cùng chung chí hướng tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (thông qua chiến lược của EU với khu vực) hướng đến việc đa dạng hóa chuỗi cung ứng trên nhiều lĩnh vực quan trọng như công nghệ, y tế, thiết lập tiêu chuẩn thương mại toàn cầu phù hợp với giá trị, nguyên tắc của EU.
Ngoài ba trường hợp điển hình trên, quan hệ quốc tế cũng chứng kiến xu hướng nhiều quốc gia tuy không trực tiếp đề cập đến khái niệm tự chủ chiến lược, song trong nhiều tuyên bố, chính sách và hành động có nhiều điểm tương đồng, đặc trưng của tự chủ chiến lược, như Thổ Nhĩ Kỳ, Ô-xtrây-li-a, Xin-ga-po, Phi-líp-pin (dưới thời Tổng thống Ph. Mác-cốt)...
Một số hàm ý chính sách
Hiện nay, tình hình thế giới đang trải qua những biến động to lớn, phức tạp. Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2022) đã đưa ra một số dự báo về tình hình quốc tế trong những năm tới, trong đó có sự đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn giữa các nước lớn; các quốc gia, nhất là các nước lớn, điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng; cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu; các thách thức an ninh phi truyền thống như dịch bệnh COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp(26). Trong bối cảnh đó, từ thực tiễn phát triển và triển khai chủ trương, chính sách tự chủ chiến lược của các quốc gia, có thể thấy khái niệm tự chủ chiến lược cơ bản có nhiều nét tương đồng với chủ trương, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế của các nước nhỏ, tầm trung, trong đó có Việt Nam.
Từ góc độ lý luận và thực tiễn hoạch định, triển khai chính sách đối ngoại, tự chủ chiến lược cho thấy một số điểm cần nhấn mạnh:
Thứ nhất, mục đích của tự chủ chiến lược trước hết là để giảm thiểu áp lực, thế bị động từ cạnh tranh nước lớn, ứng xử hiệu quả với các lực kéo, đẩy, sức ép chọn bên, tránh nguy cơ bị “kẹt”. Đa phần các nước nhỏ và các quốc gia tầm trung chủ trương không chọn bên mà đưa ra các lựa chọn dựa trên lợi ích quốc gia - dân tộc, đó là chọn lẽ phải, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Thứ hai, cách tiếp cận tự chủ chiến lược là toàn diện, liên ngành, toàn chính phủ, kết hợp giữa nội lực và huy động tối đa ngoại lực, trong đó nội lực là nền tảng, quyết định, đặc biệt trong các lĩnh vực quan trọng, liên quan đến an ninh quốc gia. Cần bảo đảm hài hòa giữa tự chủ và hội nhập quốc tế, xác định hội nhập quốc tế là xu thế khách quan, nhưng trong hội nhập, cần “lấy nội lực là cơ bản, là chiến lược lâu dài, là nhân tố quyết định, gắn với tranh thủ ngoại lực - nhân tố quan trọng, cần thiết, thường xuyên, đột phá”(27). Để củng cố nội lực, cần ưu tiên đồng bộ thể chế phát triển, xác định các lĩnh vực trọng yếu để tăng cường và củng cố hơn nữa khả năng tự chủ như kinh tế, công nghệ, lương thực, năng lượng song song với việc tìm kiếm cơ hội từ các đối tác tin cậy để bảo đảm chuỗi cung ứng bền vững trong các tình huống xảy ra khủng hoảng.
Thứ ba, tự chủ chiến lược không phải là biệt lập, trung lập cực đoan hay phản ứng thụ động mà trái lại càng phải đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế chủ động, tích cực, linh hoạt, đa dạng hóa, đa phương hóa (đối tác, thị trường, chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất, công nghệ...), chủ động thích ứng và tham gia điều chỉnh, xây dựng, định hình các “luật chơi” chung trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; đồng thời, tôn trọng lợi ích chính đáng của các quốc gia khác trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Thứ tư, tự chủ chiến lược mở ra nhiều cơ hội cho các nước nhỏ và các nước tầm trung, nhất là trong việc đầu tư thúc đẩy các hình thức ngoại giao chuyên biệt(28), hợp tác nhóm, tiểu đa phương, phát huy vai trò cầu nối đối thoại, trung gian, hòa giải(29)./.
-------------------------
(1) S. Kalyanaraman: “Aravind Devanathan asked: What is ‘strategic autonomy’? How does it help India’s security?” (Tạm dịch: Aravind Devanathan hỏi: “Tự chủ chiến lược” là gì? Nó giúp ích gì cho an ninh của Ấn Độ?), Manohar Parrika Institute for Defence Studies and Analyses, ngày 20-1-2015, https://idsa.in/askanexpert/strategicautonomy_indiasecurity
(2) Jeff M. Smith: “Strategic Autonomy and US - Indian Relations” (Tạm dịch: Tự chủ chiến lược và quan hệ Mỹ - Ấn Độ), ngày 6-11-2020, https://warontherocks.com/2020/11/strategic-autonomy-and-u-s-indian-relations/
(3) Nathalie Tocci: “European Strategic Autonomy: What It Is, Why We Need It, How to Achieve It” (Tạm dịch: Tự chủ chiến lược của châu Âu: Nó là gì, tại sao chúng ta cần nó, làm thế nào để đạt được nó), Istituto Affari Internazionali, 2021, https://www.iai.it/sites/default/files/9788893681780.pdf
(4) Barbara Lippert - Nicolai von Ondarza - Volker Perthes: “European Strategic Autonomy: Actors, Issues, Conflicts of Interests” (Tạm dịch: Tự chủ chiến lược của châu Âu: Tác nhân, vấn đề, xung đột lợi ích), SWP Research Paper, tháng 3-2019, https://www.swp-berlin.org/publications/products/research_papers/2019RP04_lpt_orz_prt_web.pdf
(5) Evan A. Laksmana: “Southeast Asian Militaries: The Need to Boost Strategic Autonomy” (Tạm dịch: Quân đội Đông Nam Á: Cần tăng cường tự chủ chiến lược), Fulcrum, ngày 23-12-2021, https://fulcrum.sg/southeast-asian-militaries-the-need-to-boost-strategic-autonomy/
(6) Evan A. Laksmana: “Southeast Asian Militaries: The Need to Boost Strategic Autonomy” (Tạm dịch: Quân đội Đông Nam Á: Cần tăng cường tự chủ chiến lược), Tlđd
(7) Vitor Bento: “Strategic Autonomy and Economic Power” (Tạm dịch: Tự chủ chiến lược và quyền lực kinh tế), Routledge, ngày 5-8-2022,##https://www.taylorfrancis com/books/mono/10.4324/9781003248392/strategic autonomy-economic-power-vitor-bento
(8) Suzana Anghel - Beatrix Immenkamp - Elena Lazarou: “On the path to ‘strategic autonomy’” (Tạm dịch: Trên con đường đến “tự chủ chiến lược”), European Parliamentary Research Service, tháng 9-2020, https://www.europarl.europa.eu/RegData/etudes/STUD/2020/652096/EPRS_STU(2020)652096_EN.pdf
(9) Trong thời gian này, Trung Quốc vươn lên là cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới, đưa ra một số điều chỉnh chính sách về đối ngoại theo hướng từ bỏ “giấu mình chờ thời”; chính quyền Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma đề ra và triển khai chính sách “tái cân bằng”, không chấp nhận đề nghị của Trung Quốc về xác lập mô hình “G2” hay “quan hệ nước lớn kiểu mới”
(10) Sreeram Chaulia: “A self - reliant foreign policy” (Tạm dịch: Chính sách đối ngoại tự chủ), The Hindu, ngày 13-8-2020, https://www.thehindu.com/opinion/op-ed/a-self-reliant-foreign-policy/article32339890.ece
(11) Honourable Membersa: “Address to Parliament” (Tạm dịch: Diễn văn trước Quốc hội), ngày 25-10-1999, https://eparlib.nic.in/bitstream/123456789/4004/1/narayanan_25_10_1999.pdf search=
(12) Jeff M. Smith: “Strategic Autonomy and US - Indian Relations” (Tạm dịch: Tự chủ chiến lược và quan hệ Mỹ - Ấn Độ), Tlđd
(13) Bài phát biểu của Ngoại trưởng X. Giai-san-ca (S. Jaishankar) về “Tầm nhìn của Ấn Độ về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”, Bộ Ngoại giao Ấn Độ, ngày 18-8-2022, https://www.mea.gov.in/Speeches-Statements.htm?dtl%2F35641%2FAddress_by_External_Affairs_Minister_Dr_S_Jaishankar_at_the_Chulalongkorn_University_on_Indias_Vision_of_the_IndoPacific&fbclid=IwAR3ywjCOMtWTekDEJoKRP072QQ_V_J9XOYzQZUMCS6jDVr2pMX6dJpmZ_ZY; Bài phát biểu của Ngoại trưởng X. Giai-san-ca tại Viện Chính sách xã hội châu Á ở Thủ đô Niu Đê-li (Ấn Độ), Bộ Ngoại giao Ấn Độ, ngày 29-8-2022, https://www.mea.gov.in/Speeches-Statements.htm?dtl%2F35662%2FRemarks_by_External_Affairs_Minister_Dr_S_Jaishankar_at_the_launch_of_Asia_Society_Policy_Institute#.Yw5-p0gabtM.twitter.
(14) Rajiv Bhatia: “India and Strategic Autonomy” (Tạm dịch: Ấn Độ và tự chủ chiến lược), Gateway House, Bộ Ngoại giao Ấn Độ, ngày 12-2-2019, https://www.gatewayhouse.in/india-strategic-autonomy/.
(15) Refinitiv - một công ty của Tập đoàn giao dịch chứng khoán Luân Đôn (Anh) ước tính khoảng 3,36 triệu tấn dầu thô Nga đã đến Ấn Độ vào tháng 5-2022, gấp 9 lần trung bình tháng 5-2021
(16) Xem: PTI: “Russia’s share of arms import to India fell from 69% in 2012-17 to 46% in 2017 - 21: Report” (Tạm dịch: Thị phần nhập khẩu vũ khí của Nga cho Ấn Độ giảm từ 69% trong các năm 2012 - 2017 xuống còn 46% trong các năm 2017 - 2021: Báo cáo), ngày 15-3-2022, https://economictimes.indiatimes.com/news/defence/russias-share-of-arms-import-to-india-fell-from-69-in-2012-17-to-46-in-2017-21 report/articleshow/90218483.cms?utm_source=contentofinterest&utm_medium=text&utm_campaign=cppst; Forum on the Arams Trade: “U.S. Arms Sales to India” (Tạm dịch: Bán vũ khí của Hoa Kỳ cho Ấn Độ), 2021, https://www.forumarmstrade.org/usindia.html
(17) Nguyễn Tiến: “Ấn Độ biên chế tàu sân bay nội địa đầu tiên”, Báo Thanh niên điện tử, ngày 2-9-2022, https://thanhnien.vn/an-do-bien-che-tau-san-bay-noi-dia-dau-tien-post1495823.html
(18) In-đô-nê-xi-a là một trong 5 nước sáng lập Phong trào Không liên kết vào năm 1955
(19) Xem: Office of the Historian: “Bandung Conference (Asian-African Conference), 1955” (Tạm dịch: Hội nghị Bandung (Diễn đàn Á - Phi), 1955), Foreign Service Institute United States Department of State, truy cập ngày 12-9-2022, https://history.state.gov/milestones/1953-1960/bandung-conf
(20) European Commission: “Communication from the Commission to the European Parliament, the Council, the European Economic and Social Committee and the Committee of the Regions: Towards a more competitive and efficient defence and security sector” (Tạm dịch: Liên lạc từ Ủy ban tới Nghị viện châu Âu, Hội đồng, Ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Âu và Ủy ban các khu vực: Hướng tới một khu vực quốc phòng và an ninh cạnh tranh và hiệu quả hơn), ngày 24-7-2013, https://eurlex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/PDF/?uri=CELEX:52013DC0542&from=EN
(21) Shared Vision - Common Action: “A Stronger Europe - A Global Strategy for the European Union’s Foreign and Security Policy” (Tạm dịch: Một châu Âu mạnh hơn - Chiến lược toàn cầu cho chính sách đối ngoại và an ninh của Liên minh châu Âu), The Diplomatic Service of the European Union, ngày 15-12-2019, https://eeas.europa.eu/topics/eu-global-strategy/17304/node/17304_fr
(22) Josep Borell: “Why European strategic autonomy matters” (Tạm dịch: Tại sao tự chủ chiến lược của châu Âu lại quan trọng), The Diplomatic Service of the European Union, ngày 3-12-2020, https://eeas.europa.eu/headquarters/headquarters-homepage/90963/node/90963_en
(23) Josep Borell: “Europe’s Watershed Year” (Tạm dịch: Năm đầu nguồn của châu Âu), Project Syndicate, ngày 7-1-2021, https://www.project-syndicate.org/onpoint/europe-covid-response-and-future-agenda-by-josep-borrell-2021-01
(24) “Informal meeting of the Heads of State or Government Versailles Declaration” (Tạm dịch: Cuộc họp không chính thức giữa những người đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ tại Véc-xây), ngày 11-3-2022, https://presidence-francaise.consilium.europa.eu/media/qphpn2e3/20220311-versailles-declaration-en.pdf
(25) Strategic Communications: “A Strategic Compass for the EU” (Tạm dịch: La bàn chiến lược cho EU), The Diplomatic Service of the European Union, ngày 21-2-2022, https://eeas.europa.eu/headquarters/headquarters-homepage_en/89047/A%20Strategic%20Compass%20for%20the%20EU
(26) Xem: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 105 - 107
(27) Phạm Minh Chính: “Chân thành, lòng tin và trách nhiệm vì một thế giới tốt đẹp hơn”, Tạp chí Cộng sản, số 990, tháng 5-2022, tr. 24
(28) Xem: Vũ Lê Thái Hoàng (chủ biên): Ngoại giao chuyên biệt: Hướng đi, ưu tiên mới của Ngoại giao Việt Nam đến năm 2030, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2020; Vũ Lê Thái Hoàng - Đỗ Thị Thủy: “Quốc gia tầm trung với định hướng ngoại giao chuyên biệt: Một số gợi ý cho Việt Nam đến năm 2030”, Tạp chí Cộng sản, số 967, tháng 6-2021, tr. 99 - 104
(29) Xem: Vũ Lê Thái Hoàng - Lê Trung Kiên: “Cơ chế hợp tác nhóm: Thực tiễn quốc tế và hàm ý chính sách đối với Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 975, tháng 10-2021, tr. 104 - 111
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước tiếp và hội kiến với Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres  (22/10/2022)
Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres đến thăm chính thức Việt Nam  (22/10/2022)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Tổng Thư ký Liên hợp quốc  (21/10/2022)
Chủ tịch nước: Lực lượng công an nhân dân cần nỗ lực phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc  (13/08/2022)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam