Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, xứng đáng làm nòng cốt của kinh tế nhà nước, dẫn dắt, tạo động lực xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế

NGUYỄN HOÀNG ANH
Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp

14:54, ngày 05-10-2022

TCCS - Ở Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước luôn giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, để phát triển nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế, việc tiếp tục đổi mới, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước - lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước - trở nên đặc biệt cấp thiết.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan mô hình khai thác dầu khi của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam _Ảnh: TTXVN

Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và tình hình thế giới có nhiều biến động, khó lường như hiện nay, để khẳng định được năng lực độc lập, tự chủ của quốc gia, đòi hỏi Việt Nam cần chuẩn bị nội lực tự cường trên nhiều khía cạnh, trong đó có việc bảo đảm khả năng độc lập, tự chủ về kinh tế. Đó là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế, ít bị tổn thương trước những biến động bất lợi, luôn bảo đảm duy trì các hoạt động bình thường cho phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ đắc lực nhiệm vụ quốc phòng - an ninh quốc gia.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia”(1). Như vậy, tại Đại hội XIII, việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ chính thức được nhấn mạnh như một nhiệm vụ quan trọng để hiện thực hóa khát vọng phát triển của Việt Nam trong bối cảnh mới, trong đó việc bảo đảm các cân đối lớn trở thành một trong những biện pháp để bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Khi các cân đối lớn không được bảo đảm, nguy cơ lệ thuộc hoặc bị tác động bởi các nhân tố bên ngoài có thể gây nên những hệ lụy khó lường. Việc coi các cân đối lớn là một nội hàm của biện pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ thể hiện sự phát triển về nhận thức lý luận của Đảng ta trong Văn kiện Đại hội XIII so với các kỳ đại hội trước.

Để có một nền kinh tế độc lập, tự chủ theo chủ trương của Đảng, một trong những nhiệm vụ có tính đột phá quan trọng hàng đầu là phải nhanh chóng tháo gỡ những “điểm nghẽn” giúp doanh nghiệp Việt Nam có thể bứt phá, lớn mạnh, trở thành nòng cốt của nền kinh tế. Trong đó, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có sứ mệnh, vị trí và vai trò quan trọng, dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, hướng dẫn, cuốn hút, thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng; thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, trực tiếp bảo toàn và phát triển các nguồn lực quan trọng của đất nước; giữ vị trí chi phối trong nhiều ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước cần bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, như điện, than, hóa chất cơ bản, xăng, dầu, khí, kết cấu hạ tầng hàng không, đường sắt, đường bộ. Đồng thời, DNNN cần đi đầu trong việc hỗ trợ, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của khu vực doanh nghiệp Việt Nam nói chung. Doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh mới, trước hết, cần đi nhanh vào các ngành công nghệ cao, các ngành có khả năng dẫn dắt, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa, như hạ tầng số, cơ khí chính xác hiện đại, sản xuất, chế tạo linh kiện, máy móc và thiết bị hoàn chỉnh cho các ngành sản xuất; công nghệ nguồn, vật liệu mới, năng lượng mới, các ngành thiết bị không gian, hàng hải, thiết bị thông minh...

Song song với quá trình đổi mới tư duy, sự phát triển của nền kinh tế, của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong quá trình hội nhập quốc tế, ở mỗi giai đoạn nhất định, quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của DNNN trong nền kinh tế ngày càng hoàn thiện hơn.

Ngay từ Đại hội VI của Đảng, kinh tế quốc doanh được khẳng định: “giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác... chủ động mở rộng liên kết với các thành phần kinh tế khác, hướng các thành phần đó vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội”(2). Quan điểm này được Đảng ta tiếp tục khẳng định trong Văn kiện Đại hội VII, kinh tế quốc doanh nắm giữ những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Đến Đại hội VIII, trên cơ sở kết quả tổng kết lý luận và thực tiễn quá trình đổi mới, thuật ngữ “kinh tế nhà nước” được sử dụng thay thế cho khái niệm “kinh tế quốc doanh” với nội hàm mới. Về vị trí, kinh tế nhà nước được Đảng ta xác định nhất quán “đóng vai trò chủ đạo”.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn hoạt động của DNNN dưới ánh sáng của đường lối Đại hội Đảng các nhiệm kỳ trước, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, “Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước” đã chỉ rõ vai trò của DNNN: “giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế”(3)

Đại hội X có sự điều chỉnh nhất định về vị trí của DNNN: “Xóa bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước... tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích”(4). Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhất quán chủ trương này.

Tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh và chỉ rõ hơn vai trò của DNNN, tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 3-6-2017, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, “Về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”, đã cụ thể hóa quan điểm của Đại hội XII, nêu bật hơn vai trò của DNNN: “Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; doanh nghiệp nhà nước thực hiện vai trò dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”(5).

Sản xuất công tơ điện tử và thiết bị đo xa ứng dụng CMIS ở Trung tâm Sản xuất thiết bị đo điện tử Điện lực miền Trung (Tập đoàn Điện lực Việt Nam) _Ảnh: Tư liệu

Kế thừa các quan điểm nêu trên, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường... Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế”(6).

Vê khía cạnh chính sách, thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng theo tiến trình nêu trên, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách về đổi mới, sắp xếp, phát triển DNNN. Theo đó, quá trình đổi mới, sắp xếp DNNN được tiến hành từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Kể từ đó tới nay, trải qua nhiều giai đoạn, với nhiều biện pháp, chính sách phát triển đã đi vào thực tiễn hoạt động của DNNN. Tiến trình cổ phần hóa (CPH) DNNN được thực hiện theo Quyết định số 202/CT, ngày 8-6-1992, của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, “Về tiếp tục làm thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần” và Chỉ thị số 84/TTg, ngày 4-3-1993, của Thủ tướng Chính phủ, “Về tiếp tục làm thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần”. Thời kỳ mở rộng thí điểm diễn ra trong các năm 1996 - 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP, ngày 7-5-1996, “Về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần”. Mặc dù, về số lượng DNNN được CPH gấp 5 lần thời kỳ đầu, nhưng vẫn còn rất thấp so với yêu cầu đổi mới DNNN. Nhìn chung, tốc độ CPH diễn ra hết sức chậm chạp. Quá trình này đạt được sự chuyển biến rõ rệt hơn sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP, ngày 29-6-1998, “Về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần”. Sau khi Nghị định số 44/1998/NĐ-CP được ban hành, nhiều bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nhà nước đã tích cực thực hiện và đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Với Nghị định số 64/2002/NĐ-CP, ngày 19-6-2002, “Về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần”, với nhiều quy định mới, từ năm 2002, CPH đã đi vào chiều sâu hơn, có nhiều điểm mới, được đẩy nhanh tiến độ. 

Để tiếp tục đổi mới tổ chức, quản lý, sắp xếp, CPH, thoái vốn nhà nước, từ năm 2011 đến nay, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, quy định tạo lập hành lang pháp lý cho CPH. Trong đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2011/NĐ-CP, ngày 16-7-2011, “Về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần”, quy định về đối tượng CPH, điều kiện CPH, hình thức CPH, phương thức bán cổ phần lần đầu, xử lý tài chính khi CPH,...

Nhằm triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, “Về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước”, Thủ tướng Chính phủ đã công bố Danh mục doanh nghiệp nhà nước phải cổ phần hóa trong giai đoạn 2017 - 2020, tại Công văn số 991/TTg-ĐMDN, ngày 10-7-2017, và ban hành Quyết định số 1232/QĐ-TTg, ngày 17-8-2017, về “Phê duyệt danh mục doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện thoái vốn giai đoạn 2017 - 2020”.

Để thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, thực hiện chủ trương của Đảng, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (sau đây gọi tắt là Ủy ban) được thành lập trên cơ sở Nghị quyết số 09/NQ-CP, ngày 3-2-2018, của Chính phủ, “Về thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp”. Nghị định số 131/2018/NĐ-CP, ngày 29-9-2018, của Chính phủ, “Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp” và các bộ đã bàn giao 19 DNNN sang Ủy ban, chuyển mô hình quản lý từ đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp phân tán sang mô hình tập trung.

Tiếp tục nỗ lực nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, ngày 29-10-2020, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 161/NQ-CP, “Về đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước”, đề ra các nhiệm vụ quan trọng đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN, khẳng định vai trò của các doanh nghiệp này trong nền kinh tế thị trường. Nghị quyết nêu rõ một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong thời gian tới đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, DNNN; trong đó, cần khẩn trương nâng cao năng lực quản trị, năng lực cạnh tranh, chú trọng công tác bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng hệ thống các chỉ số để theo dõi, đánh giá hiệu quả sản xuất, kinh doanh theo các chuẩn mực quản trị hiện đại và thông lệ quốc tế.

Khái quát thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước hiện nay

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, cùng với sự nỗ lực của DNNN, việc CPH, sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN hiện nay đã đạt được một số kết quả tích cực:

Thứ nhất, số lượng DNNN dần tiến tới sự hợp lý với yêu cầu phát triển của nền kinh tế.

Tính đến ngày 31-12-2020, cả nước có 646 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, bao gồm: 459 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, trong đó có 6 tập đoàn kinh tế, 52 tổng công ty nhà nước, 15 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và 386 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên độc lập; 187 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, trong đó có 3 tập đoàn kinh tế, 15 tổng công ty, 2 công ty cổ phần hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con và 167 công ty độc lập (162 công ty cổ phần và 5 công ty hoạt động với mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên)(7).

Như vậy, xét về lượng, qua nhiều nỗ lực đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại, số lượng DNNN đã giảm mạnh, các lĩnh vực và địa bàn hoạt động cũng được thu hẹp hơn so với trước. Tuy nhiên, điểm cần nhấn mạnh là mặc dù có sự giảm mạnh về số lượng, song hoạt động của DNNN không vì thế mà giảm theo, trái lại, đang vận hành theo hướng tinh gọn và hiệu quả.

Thứ hai, xét về tổng thể, kết quả sản xuất, kinh doanh đáng được ghi nhận.

Tính đến hết năm 2020, tổng tài sản của toàn bộ các DNNN là 3.573.698 tỷ đồng, tăng 1% so với năm 2019. Tỷ trọng tài sản cố định bình quân chiếm 36% tổng tài sản. Vốn chủ sở hữu là 1.680.303 tỷ đồng, tăng 1% so với năm 2019. Tổng giá trị vốn nhà nước đang đầu tư tại các DNNN là 1.573.471 tỷ đồng, tăng 2% so với năm 2019.

Riêng đối với 19 tập đoàn, tổng công ty thuộc Ủy ban quản lý, thời gian qua, mặc dù trong bối cảnh chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, nhưng các tập đoàn, tổng công ty vẫn duy trì liên tục hoạt động sản xuất, kinh doanh và đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tổng hợp kết quả sản xuất, kinh doanh năm 2021 của 19 tập đoàn, tổng công ty là: Tổng doanh thu đạt 99% kế hoạch (821.295 tỷ đồng, bằng 108% so với năm 2020); tổng lợi nhuận trước thuế vượt 70% kế hoạch (34.179 tỷ đồng, bằng 93% so với năm 2020). Trong đó 13/19 tập đoàn, tổng công ty hoàn thành và vượt kế hoạch về doanh thu; 14/19 tập đoàn, tổng công ty hoàn thành và vượt kế hoạch về nộp ngân sách; 4 tập đoàn, tổng công ty nộp ngân sách cao hơn so với kế hoạch và so với năm 2020.

Nhiều dự án đầu tư quy mô lớn, tạo tiền đề quan trọng cho việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước được triển khai thực hiện, như Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mở rộng, Nhà máy Thủy điện Ialy mở rộng, Nhà máy Nhiệt điện Quảng Trạch I, Cảng hàng không quốc tế Long Thành, Nhà ga T3 sân bay Tân Sơn Nhất, Nhà ga T2 sân bay Cát Bi, mở rộng sân bay Điện Biên,... Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam và Tổng Công ty Viễn thông MobiFone đầu tư mới 6.061 trạm 4G và 3.675 kết cấu hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin.

Nhân viên Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam lắp đặt các trạm phát sóng 5G tại khu vực Hà Nội _Ảnh: VNPT

Tầm quan trọng và những kết quả, đóng góp to lớn của DNNN cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước là rõ ràng, không thể phủ nhận. Thể hiện trên các mặt sau:

Một là, các DNNN đã đảm trách vai trò là lực lượng quan trọng của nền kinh tế, góp phần điều tiết, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Hai là, các DNNN đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, như tài chính - ngân hàng, dầu khí, điện, than, khai khoáng, hóa chất cơ bản, viễn thông, hạ tầng chuyển đổi số, giao thông vận tải, cung ứng xăng, dầu, lương thực... vừa bảo đảm nền tảng phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, ngành kinh tế khác, vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và xuất khẩu.

Ba là, năm 2020, các DNNN đã cùng cả nước phòng, chống đại dịch COVID-19 hiệu quả, thực hiện các nhiệm vụ giúp đồng bào từ các vùng dịch trên thế giới, cung cấp hóa chất, vật tư, thiết bị phòng, chống dịch; đặc biệt, thực hiện miễn, giảm các loại phí, giá dịch vụ, sản phẩm để ổn định thị trường, hỗ trợ đời sống nhân dân và hoạt động của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế với tổng giá trị lên tới 24.000 tỷ đồng. Các DNNN cũng là đơn vị đi đầu thực hiện công tác an sinh xã hội theo chủ trương của Đảng, Nhà nước. Trong 5 năm qua, tổng kinh phí hỗ trợ triển khai các chương trình an sinh xã hội, các chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững lên tới trên 9.000 tỷ đồng; đồng thời, hỗ trợ, giúp đỡ trực tiếp cho 54/62 huyện nghèo trong cả nước.

Số liệu ở Bảng 1 cho thấy, khu vực DNNN có hiệu suất sử dụng lao động cao nhất đạt 18,9 lần, trong khi doanh nghiệp ngoài nhà nước là 17 lần và doanh nghiệp FDI là 13 lần; chỉ số nợ cao nhất là 3,6 lần, các khu vực khác lần lượt là 2 lần và 1,6 lần; chỉ số vòng quay vốn thấp nhất là 0,4 lần, các khu vực khác lần lượt là 0,6 lần và 1 lần. Hiệu suất sinh lãi của khu vực DNNN cao hơn doanh nghiệp ngoài nhà nước, nhưng thấp hơn so với doanh nghiệp FDI. Nhìn chung, so với kỳ vọng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các DNNN chưa tương xứng với tiềm lực, nguồn lực nắm giữ, song có triển vọng nhất định.

So với doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp FDI, chất lượng và hiệu quả hoạt động của DNNN còn thấp. Nói cách khác, DNNN phải sử dụng nhiều vốn hơn để tạo ra được 1 giá trị sản phẩm đầu ra, là một yếu tố làm giảm hiệu quả đầu tư của DNNN.

Thời gian qua, khu vực DNNN đã được sắp xếp, đổi mới theo hướng thu hẹp dần, giảm bớt ở nhiều vị trí không cần thiết sự hiện diện DNNN, kể cả về diện hoạt động (phạm vi ngành, lĩnh vực có DNNN) và mật độ hiện diện DNNN (số lượng DNNN cùng kinh doanh trong ngành, lĩnh vực). Do đó, số lượng DNNN thời gian qua giảm mạnh cùng với việc thực hiện cơ cấu lại, CPH, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Tính đến hết năm 2020, mặc dù chỉ chiếm gần 0,08% số lượng doanh nghiệp đang hoạt động, nhưng các DNNN vẫn đang nắm giữ nhiều nguồn lực quan trọng của nền kinh tế, chiếm 25,78% tổng vốn của toàn bộ khu vực doanh nghiệp(8). Khu vực doanh nghiệp nhà nước thu hút 1,1 triệu lao động, chiếm 7,3% lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Tuy các DNNN nộp ngân sách nhà nước có giảm trong năm vừa qua, nhưng đây vẫn là nguồn thu quan trọng, ổn định cho ngân sách nhà nước.

Bên cạnh những kết quả đạt được, các DNNN vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, như hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh còn hạn chế, chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ. Mặc dù khoảng 60% nguồn lực xã hội đang tập trung cho DNNN(9), nhưng khu vực này chỉ đóng góp gần 40% GDP, phần còn lại 60% của GDP là đóng góp từ doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI. Như vậy, khu vực DNNN sử dụng vốn chưa hiệu quả.

Doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện rõ vai trò nổi bật trong việc dẫn dắt, tạo động lực, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. Doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự mạnh ở những ngành, lĩnh vực có ảnh hưởng, quyết định đến việc hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của doanh nghiệp Việt Nam.

Nguyên nhân trực tiếp của nhiều hạn chế nêu trên xuất phát từ việc tổ chức thực hiện, đánh giá kết quả cũng như chậm khắc phục những khuyết điểm, hạn chế trong đội ngũ cán bộ, quản lý, thiếu giám sát, kiểm tra, nhắc nhở kịp thời. Bên cạnh đó, nhìn trong tổng thể nền kinh tế thì kinh tế nhà nước dựa trên lực lượng sản xuất còn nhiều hạn chế với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa hoàn thiện... nên sự yếu kém, hạn chế của doanh nghiệp Việt Nam nói chung, DNNN nói riêng là khó tránh khỏi. Những hạn chế này đã được Đại hội XIII chỉ ra: “Nhiều doanh nghiệp nhà nước chậm thực hiện cơ cấu lại và đổi mới cơ chế quản trị; thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn gặp một số vướng mắc cả về thể chế và tổ chức thực hiện; hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp; tình trạng nợ, thua lỗ, lãng phí còn lớn”(10).

Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

Đại hội XIII đưa ra quan điểm chỉ đạo nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN: “Đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại để nâng cao hiệu quả, đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước”(11). Để thực hiện, triển khai quan điểm trên, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh cơ cấu lại DNNN.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy quá trình cơ cấu lại DNNN; hoàn thiện cơ chế sử dụng nguồn thu từ chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập và chuyển nhượng vốn nhà nước; đổi mới cơ chế giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động đối với tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN; nghiên cứu thí điểm chuyển đổi một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ sang hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp cổ phần với các cổ đông là các tổ chức kinh tế nhà nước, DNNN có chức năng đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.

Đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, CPH DNNN hiệu quả, công khai, minh bạch; có cơ chế giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện. Tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn tại DNNN. Xử lý dứt điểm các dự án thua lỗ, kém hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, theo cơ chế thị trường và quy định của pháp luật. Nhà nước không đầu tư, bổ sung vốn từ ngân sách nhà nước vào các dự án thua lỗ, không hiệu quả. Việc xử lý bằng các hình thức giải thể, phá sản phải bảo đảm lợi ích cao nhất của Nhà nước, quyền lợi chính đáng của người lao động và nhà đầu tư.

Tăng cường phân cấp, ủy quyền cho hội đồng thành viên, hội đồng quản trị các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, đồng thời tăng cường hoạt động giám sát, kiểm tra của cơ quan đại diện chủ sở hữu để kịp thời phòng ngừa, phát hiện, xử lý sai phạm theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của DNNN.

Áp dụng nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế để nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của DNNN. Có cơ chế khuyến khích nghiên cứu, phát triển, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý, giám sát doanh nghiệp. Thực hiện chuyển đổi số, thúc đẩy công khai, minh bạch thông tin tài chính, tăng cường trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp. Phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.

Áp dụng nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế để nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước _Ảnh: tapchicongthuong.vn

Thứ ba, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động mô hình cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Củng cố, hoàn thiện mô hình Ủy ban để phát huy đúng vai trò quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.

Thứ tư, xây dựng mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại.

Việc nâng cao nhận thức, đổi mới quản trị theo những chuẩn mực chung của thế giới phải gắn với mục tiêu nâng cao hiệu quả việc trao quyền tự chủ tài chính, tự chịu trách nhiệm cho DNNN để bảo đảm sự cạnh tranh, bình đẳng, hội nhập khi DNNN tham gia thị trường.  

Bên cạnh đó, cần tách biệt hai yếu tố sở hữu và quản trị. Bởi, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không phụ thuộc vào yếu tố sở hữu mà phụ thuộc vào yếu tố quản trị trong doanh nghiệp. Nếu quản trị kém thì hiệu quả sẽ kém. Đối với yếu tố sở hữu, vấn đề đặt ra là phải xác định rõ nội dung giám sát của Nhà nước, vai trò quản lý nhà nước và vai trò chủ sở hữu, cũng như vai trò chủ sở hữu với quyền quyết định kinh doanh. Gắn kết quả việc thực hiện sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN với việc đánh giá trách nhiệm của người đứng đầu. Công tác cán bộ, chính sách tiền lương, thưởng của DNNN cần gắn với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.

Đồng thời, cần có cơ chế giám sát chặt chẽ trách nhiệm của người đứng đầu DNNN. Ngoài ra, cần ban hành bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của từng loại hình DNNN theo mục tiêu đặt ra. Khi có bộ tiêu chí sẽ biết được hiệu quả hoạt động của từng loại hình DNNN.

Thứ năm, tách bạch hoạt động kinh doanh với hoạt động công ích.

Trong nền kinh tế thị trường, sự tách bạch giữa hoạt động công ích của Nhà nước và hoạt động kinh doanh là yêu cầu khách quan. Về nguyên tắc, doanh nghiệp hoạt động kinh doanh với mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp công ích có mục tiêu tối đa hóa lợi ích xã hội. Nếu có sự tách bạch thì mọi hoạt động của doanh nghiệp sẽ minh bạch, đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mới chính xác. Nếu để doanh nghiệp vừa kinh doanh, vừa đảm nhiệm vai trò xã hội thì sẽ dẫn đến việc hoặc không thực hiện được mục tiêu lợi nhuận, hoặc không làm tốt được vai trò xã hội. Sự thiếu minh bạch này sẽ dễ bị các DNNN lợi dụng để biện minh cho việc kinh doanh kém hiệu quả, vì phải thực hiện các mục tiêu xã hội và ngược lại. Do đó, chỉ nên để doanh nghiệp công ích thực hiện các mục tiêu xã hội; còn các doanh nghiệp kinh doanh phải hoàn thành, có hiệu quả kinh doanh tốt và phải đặt trong điều kiện bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác.

Thứ sáu, đẩy mạnh chuyển đổi số trong các DNNN.

Thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của đất nước, được xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Các DNNN có năng lực và trách nhiệm đi đầu trong thực hiện chuyển đổi số, vừa bảo đảm vai trò dẫn dắt và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, vừa góp phần lan tỏa, thực hiện thành công chuyển đổi số quốc gia.

Thứ bảy, nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý tại DNNN.

Hoàn thiện hệ thống khuyến khích, đòn bẩy kinh tế đi đôi với nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương trong DNNN. Thực hiện rộng rãi cơ chế tuyển dụng, thông qua thi tuyển cạnh tranh, công khai, minh bạch đối với tất cả các chức danh quản lý, điều hành và các vị trí công việc khác trong doanh nghiệp. Bảo đảm tính công khai, minh bạch của DNNN và trách nhiệm giải trình của người quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là về tài chính, đầu tư, mua sắm, sử dụng vốn nhà nước, chi phí, kết quả kinh doanh, phân phối lợi nhuận, công tác cán bộ, các giao dịch lớn, tài sản và thu nhập của người quản lý doanh nghiệp./.

--------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 135
(2) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 392
(3) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Sđd, 2016, t. 60, tr. 602
(4) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Sđd, 2018, t. 65, tr. 189
(5) Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 3-6-2017, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, “Về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 129
(7) Theo Báo cáo số 399/BC-CP, ngày 12-10-2021, của Chính phủ, “Về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2020”
(8) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2021
(9) Vũ Văn Hà: “Xây dựng, phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 25-12-2020, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/820756/xay-dung%2C-phat-huy-vai-tro-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc-trong-dieu-kien-hien-nay.aspx
(10), (11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 81, 133 - 134