Thống nhất nhận thức, tập trung nguồn lực đưa kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác phát triển đúng hướng, hiệu quả và bền vững
17:42, ngày 11-07-2022
TCCS - Phát triển kinh tế tập thể là chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác với nhiều hình thức tổ chức phong phú, hoạt động đa dạng, ngày càng phát triển cả về số lượng và quy mô, đóng góp quan trọng vào mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong giai đoạn tới, cần thống nhất nhận thức, tập trung nguồn lực đưa kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác vượt qua khó khăn, thách thức, phát triển đúng hướng, hiệu quả và bền vững.
Những chủ trương, định hướng lớn của Đảng về phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 18-3-2002, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể đã cụ thể hóa Cương lĩnh, đề ra các chủ trương, chính sách khá toàn diện về phát triển kinh tế tập thể, trong đó bao gồm các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đến năm 2010 nhằm đưa kinh tế tập thể thoát khỏi những yếu kém, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, tiến tới có tỷ trọng ngày càng lớn hơn trong GDP của nền kinh tế. Nghị quyết chỉ rõ: Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của thành viên, góp phần xóa đói, giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng. Tiếp tục phát triển kinh tế tập thể trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn, trong đó trọng tâm là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới chính sách để khuyến khích, thúc đẩy phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể với những hình thức hợp tác đa dạng, tự nguyện, đáp ứng nhu cầu của các thành viên, phù hợp với trình độ phát triển của các ngành, nghề, trên các địa bàn. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới trên cơ sở tổng kết các đơn vị làm tốt để tăng sức hấp dẫn, tạo động lực cho kinh tế tập thể, nhất là đối với nông nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp. Đa dạng hóa hình thức sở hữu trong kinh tế tập thể (có sở hữu của pháp nhân, thể nhân). Phát triển các loại hình doanh nghiệp trong hợp tác xã và các hình thức liên hiệp hợp tác xã. Có cơ chế để hợp tác xã có thể phát huy quyền sử dụng tư liệu sản xuất chung tại cơ sở; tách bạch giữa quyền này với quyền sở hữu của các xã viên. Khuyến khích huy động cổ phần và nguồn vốn góp của xã viên để không ngừng tăng thêm vốn đầu tư phát triển hợp tác xã. Khuyến khích tăng tài sản và quỹ không chia của hợp tác xã. Giải thể hoặc chuyển các hợp tác xã chỉ còn là hình thức sang các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy định của pháp luật”.
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú trọng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cổ phần.
Khuyến khích việc tăng vốn góp và huy động từ thành viên để tăng nguồn vốn hoạt động của hợp tác xã, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ không chia trong hợp tác xã. Hợp tác xã và các loại hình kinh tế hợp tác hoạt động theo các nguyên tắc: hợp tác tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng”.
Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 2-1-2008, của Ban Bí thư “Về tăng cường lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” nhấn mạnh: “Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước trong việc tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”. Nhà nước ban hành các chính sách trợ giúp kinh tế tập thể trong quá trình xây dựng và phát triển, thông qua việc giúp đỡ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ứng dụng khoa học, công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển, giải quyết nợ tồn đọng trước đây, khuyến khích việc tích lũy và sử dụng có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã. Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực nhưng vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển của sản xuất, tránh duy ý chí, nóng vội, gò ép, áp đặt; đồng thời, không buông lỏng lãnh đạo để mặc cho tình hình phát triển tự phát, chậm nắm bắt và đáp ứng nhu cầu về phát triển kinh tế hợp tác của nhân dân.
Kết luận số 70-KL/TW, ngày 9-3-2020, của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” khẳng định: “nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, tổ chức và nhân dân về bản chất của kinh tế tập thể, hợp tác xã, nhất là hợp tác xã kiểu mới. Khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định rõ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là xu thế tất yếu, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị”.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định xu hướng phát triển: “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển”(1) và nguyên tắc hoạt động: “Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có phạm vi hoạt động rộng lớn, với vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã”(2).
Việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về hợp tác xã (HTX) được tập trung chỉ đạo, theo đó, Luật Hợp tác xã năm 2012 và các quy định pháp luật liên quan đã ban hành, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tập thể (KTTT), HTX phát triển theo hướng giảm tối đa thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh; thành viên hợp tác xã bao gồm cả thể nhân và pháp nhân; cán bộ, công chức được tham gia HTX với tư cách là xã viên; phân định rõ chức năng quản lý của ban quản trị và chức năng điều hành của chủ nhiệm. Đồng thời, việc xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ thúc đẩy KTTT, HTX phát triển được quan tâm hơn, trong đó bao gồm các chính sách về đất đai, tài chính - tín dụng, khoa học - công nghệ, hỗ trợ tiếp thị và mở rộng thị trường, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực và chính sách đối với phát triển hợp tác xã nông nghiệp. Đề cao trách nhiệm của các cấp ủy, tăng cường quản lý nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong việc tuyên truyền, vận động người dân tham gia và phát triển KTTT, HTX.
Một số vấn đề đặt ra sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã
Sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, 10 năm thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, HTX, tổ hợp tác phát triển cả về lượng và chất, trên khắp các vùng, miền, chất lượng hoạt động được nâng lên. KTTT, HTX đã hỗ trợ cho gần 6 triệu thành viên, chủ yếu là các hộ nông dân, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tạo ra số lượng lớn việc làm, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự - an toàn xã hội.
Tính đến tháng 12-2021, cả nước có 73.000 tổ hợp tác, 27.342 hợp tác xã và 103 liên hiệp hợp tác xã. Trong tổng số 27.342 HTX cả nước, có 18.327 HTX nông nghiệp, 1.181 quỹ tín dụng nhân dân và 9.015 HTX phi nông nghiệp, thu hút 5,7 triệu thành viên tham gia. Số lượng HTX tăng 16.420 đơn vị (khoảng 2,5 lần) so với năm 2001. Số lượng các HTX hoạt động hiệu quả chiếm khoảng 52% trong tổng số HTX (14.295 HTX). Trong nông nghiệp, cả nước có 18.327 HTX (chiếm gần 70% tổng số HTX cả nước) và 79 liên hiệp HTX nông nghiệp; thu hút được 3,28 triệu hộ (bằng 38% tổng số hộ sản xuất nông, lâm, thủy sản), giảm khoảng 1,87 triệu thành viên so với năm 2013; bình quân mỗi HTX có 176 thành viên; có 2.297 HTX thành lập doanh nghiệp trong HTX, chiếm 13% tổng số HTX nông nghiệp trên cả nước. Tổng số lao động thường xuyên trong HTX nông nghiệp khoảng 550 nghìn người; vốn hoạt động bình quân/HTX khoảng 1,61 tỷ đồng; doanh thu bình quân đạt 1,87 tỷ đồng/HTX; lãi bình quân đạt 207 triệu đồng/HTX.
Các HTX từng bước hoạt động đúng bản chất, trở thành chỗ dựa, phát huy vai trò kinh tế hộ, tăng cường liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ, khắc phục tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, tạo việc làm, giảm chi phí sản xuất, tăng giá bán sản phẩm, góp phần cải thiện thu nhập.
Tuy nhiên, kinh tế tập thể, hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Khu vực KTTT, HTX còn nhiều hạn chế, yếu kém chưa được khắc phục. Tốc độ tăng trưởng chậm, thiếu ổn định, chưa bền vững; tỷ lệ đóng góp vào GDP thấp và xu hướng giảm dần, chưa đáp ứng được mục tiêu Nghị quyết số 13-NQ/TW đề ra: “Đưa kinh tế tập thể thoát khỏi những yếu kém, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, tiến tới có tỷ trọng ngày càng lớn hơn trong GDP của nền kinh tế”. Số liệu thống kê cho thấy, kinh tế tập thể đóng góp vào GDP giảm từ 10% (1995) xuống 8,6% (2000), 6,18% (2005), 3,99% (2010), 3,8% (2017) và 3,49% năm 2019; tốc độ tăng trưởng thấp, chỉ xấp xỉ 1/2 tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế: 4,48% (1995), 5,46% (2000), 3,98% (2005), 3,32% (2010), 5,22% (2015) và 4,20% năm 2019.
Số lượng thành viên tham gia tổ hợp tác, HTX còn thấp (khoảng 6 triệu thành viên). Người dân còn hoài nghi, chưa thật tin tưởng, cuốn hút bởi mô hình HTX kiểu mới, do đó chưa huy động được sự tham gia, mở rộng các thành viên vào các hoạt động của HTX. Pháp luật, chính sách về liên kết chậm được hoàn thiện, dẫn đến sự gắn kết lợi ích giữa HTX và thành viên mờ nhạt, tinh thần hợp tác còn bị tâm lý lo ngại cản trở, do đó lợi ích kinh tế trực tiếp do HTX mang lại cho các thành viên chưa nhiều. Trong nông nghiệp, HTX mới thu hút được 3,28 triệu hộ sản xuất nông nghiệp, chiếm 38% tổng số hộ nông, lâm, thủy sản, giảm khoảng 1,87 triệu thành viên so với năm 2013.
Việc liên kết, hợp tác giữa các thành viên trong HTX, giữa HTX với HTX, giữa HTX với doanh nghiệp và với các thành phần kinh tế khác còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Những mô hình HTX hoạt động hiệu quả chậm được tổng kết, hướng dẫn, ban hành thể chế để phát triển. HTX mới thành lập chủ yếu có quy mô nhỏ, thiếu động lực để mở rộng về quy mô, phát triển. Đến cuối năm 2021, khoảng 23% số HTX nông nghiệp có tham gia liên kết chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Năng suất, chất lượng sản phẩm, giá trị gia tăng chưa cao. Chưa mang lại lợi ích tốt nhất cho thành viên, HTX và HTX nông nghiệp phát triển chưa bền vững.
Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu là do:
Nhận thức chưa đúng, đầy đủ và thống nhất về bản chất HTX, về vị trí vai trò của KTTT trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước; còn nhiều mặc cảm với HTX kiểu cũ, hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự phát triển của HTX kiểu mới; thiếu các nghiên cứu lý luận, thực tiễn về phát triển KTTT ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù Nghị quyết Trung ương 5 và Luật Hợp tác xã năm 2012 đã quy định khá rõ về bản chất, nguyên tắc hoạt động của HTX, nhưng nhận thức về bản chất HTX vẫn chưa thống nhất; còn đồng nhất mô hình HTX với mô hình doanh nghiệp; lẫn lộn giữa lợi ích của HTX với lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nguồn lực hỗ trợ phát triển KTTT chưa đáp ứng được yêu cầu, hiệu quả chưa cao, có lúc, có nơi bị buông lỏng, thiếu quan tâm, cũng như chưa bố trí đủ nguồn lực để thúc đẩy KTTT phát triển. Khung khổ pháp luật về HTX còn bất cập. Hệ thống chính sách ban hành chậm, thiếu đồng bộ, nhất quán, chưa phù hợp với thực tế, một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ HTX không khả thi, khó đi vào cuộc sống. Sự hỗ trợ của Nhà nước chưa đủ mạnh; chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với khu vực KTTT, HTX được ban hành nhiều, nhưng nguồn lực kèm theo chưa bảo đảm, nguồn vốn tín dụng khó tiếp cận bởi những quy định về tín chấp, thế chấp; Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã tuy đã được hình thành nhưng quy mô hạn hẹp so với nhu cầu về vốn của khu vực này.
Bộ máy quản lý nhà nước về KTTT vừa thiếu, vừa yếu, vừa lúng túng trong tổ chức và cơ chế hoạt động. Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành về phát triển KTTT hiệu quả thấp. Ở địa phương, chưa quy định rõ và chưa thống nhất cơ quan nào chịu trách nhiệm chính về KTTT. Nhiều địa phương chưa quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác hỗ trợ, tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách, pháp luật về KTTT; thiếu kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện các nghị quyết; cấp ủy nhiều nơi chưa quan tâm đúng mức, còn xem nhẹ công tác cán bộ làm nhiệm vụ phát triển KTTT.
Nâng cao nhận thức, tập trung nguồn lực phát triển kinh tế tập thể
Bối cảnh tình hình hiện nay đang thay đổi rất nhanh chóng. Việt Nam tham gia ngày càng sâu, rộng vào tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, đại dịch COVID-19, xung đột chính trị, thương mại, quân sự diễn biến hết sức phức tạp, khó lường đặt ra cho chúng ta nhiều khó khăn, thách thức nhưng cũng mở ra các cơ hội đan xen. Đối với sự phát triển của khu vực KTTT, các HTX có nhiều cơ hội được học hỏi, cọ sát và nâng cao năng lực, cũng như tiếp nhận công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý mới. Thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là từ các đối tác lớn, có công nghệ tiên tiến. Mở rộng xuất khẩu, đặc biệt, nước ta trở thành nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Hội nhập quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Chuyển đổi số, trong đó phát triển kinh tế số làm cho khoảng cách không gian và thời gian ngắn lại, hoạt động của con người thông minh, hiệu quả hơn là cơ hội để đất nước ta tận dụng tạo đột phá để rút ngắn khoảng cách phát triển, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển thương mại điện tử. Đồng thời, cạnh tranh hàng hóa diễn ra gay gắt hơn, thậm chí ngay ở thị trường nội địa, đặc biệt là khi các hàng rào thuế quan dần được xóa bỏ theo các cam kết thương mại quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Trước những diễn biến đó, để tiếp tục phát triển KTTT, kinh tế hợp tác (KTHT) cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, trọng tâm là nâng cao nhận thức và huy động nguồn lực hỗ trợ, khuyến khích KTTT, KTHT phát triển, cụ thể như sau:
Một là, tiếp tục khẳng định KTTT, KTHT ngày càng phát triển là xu thế tất yếu; là thành phần kinh tế quan trọng cùng kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát triển KTTT phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phải xuất phát từ nhu cầu của thành viên, tôn trọng giá trị, nguyên tắc hoạt động của tổ chức HTX và phù hợp với điều kiện, đặc điểm kinh tế - xã hội của từng địa phương, từng vùng, đồng thời phải tuân thủ đầy đủ các quy luật kinh tế, tuân thủ nguyên tắc tổ chức của HTX, đồng sở hữu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, do các thành viên tự nguyện thành lập nhằm tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, đáp ứng nhu cầu chung của các thành viên, trên cơ sở bình đẳng, dân chủ và cùng có lợi.
Đánh giá hiệu quả KTTT phải toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, quốc phòng của đất nước, cả về hiệu quả của tổ chức KTTT và lợi ích của các thành viên. Sức mạnh của KTTT, HTX là ở sự hợp tác, liên kết của thành viên theo chiều ngang (hợp tác giữa các thành viên) và theo chiều dọc, theo chuỗi giá trị (hợp tác giữa thành viên với các HTX, doanh nghiệp). Vì vậy, mục tiêu cần có các chỉ tiêu về số lượng thành viên tham gia KTTT, HTX (tỷ lệ thành viên/dân số, tỷ lệ thành viên bình quân/HTX); sự hợp tác, liên kết của thành viên thông qua việc cung ứng dịch vụ của HTX và sử dụng dịch vụ của thành viên.
Hai là, đẩy mạnh tuyên truyền, học tập nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận về chủ trương, định hướng phát triển KTTT, KTHT:
- Phát triển KTHT và HTX phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản: dân chủ, tự nguyện, tự chịu trách nhiệm, quản lý dân chủ và lợi ích của cộng đồng. Xác định rõ bản chất, nguyên tắc hoạt động của HTX. HTX, Liên hiệp HTX là tổ chức kinh tế, hoạt động bình đẳng trên thị trường nhằm mang lại lợi ích cho thành viên, góp phần quan trọng vào bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của số đông thành viên, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh chung của toàn nền kinh tế; tăng cường đoàn kết giữa các thành viên và ngày càng lan tỏa ra xã hội; nâng cao vị thế chính trị, xã hội của đông đảo thành viên và người lao động với tư cách là những người làm chủ.
- Thành viên tự nguyện gia nhập và ra khỏi HTX; quản lý dân chủ và bình đẳng; tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; chia lãi bảo đảm kết hợp lợi ích của xã viên và sự phát triển của HTX, hợp tác và phát triển cộng đồng. HTX được tổ chức trên cơ sở nhu cầu và tham gia tự nguyện của người lao động, tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc HTX và được pháp luật khẳng định, khi tham gia HTX người lao động phải góp vốn cổ phần, góp sức. Phân phối trong HTX là phân phối theo lao động và theo vốn góp, phân phối theo mức độ sử dụng dịch vụ của xã viên đối với HTX; HTX có tư cách pháp nhân, tự quyết định toàn bộ quá trình sản xuất, kinh doanh của mình theo quy định của pháp luật, bình đẳng với các tổ chức kinh tế khác. Thành viên tham gia HTX, điều kiện tiên quyết là phải góp vốn (theo quy định của Điều lệ hợp tác xã), góp sức khi HTX có nhu cầu; vốn góp của xã viên được chia lãi hằng năm và được rút ra khi xã viên ra khỏi HTX. Hộ gia đình vẫn là những đơn vị kinh tế tự chủ chỉ tham gia HTX để giải quyết những công việc mà hộ gia đình không tự làm được hoặc làm kém hiệu quả. Người quản lý, điều hành tổ chức KTHT không phải là người có nhiều vốn góp, mà là người có uy tín, kinh nghiệm được đa số thành viên bầu ra. Tổ chức KTHT và HTX mang tính chất xã hội - nhân đạo, vì lợi ích cộng đồng là một trong những động lực cơ bản để tồn tại và phát triển của loại hình kinh tế HTX.
- Kinh tế hợp tác dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ... lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của thành viên. Phải làm rõ hơn, nổi bật hơn bản chất tổ chức HTX, bảo đảm HTX cung cấp dịch vụ cho thành viên để mang lại lợi ích cho thành viên, không phải nhằm vào mục đích lợi nhuận. Tiếp thu kinh nghiệm quốc tế về phát triển HTX nhất là các nguyên tắc HTX đã được Liên hợp quốc (UN), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Liên minh Hợp tác xã quốc tế (ICA) khuyến cáo.
Các HTX khi thành lập, đăng ký kinh doanh phải có điều lệ riêng, có phương án sản xuất, kinh doanh rõ ràng, và đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được công nhận có tư cách pháp nhân; được thành lập và giải thể (tự nguyện hoặc bắt buộc khi vi phạm luật pháp) dựa trên nhu cầu của thành viên, không nên quan niệm đã lập ra là tồn tại vĩnh viễn.
- Phát triển KTTT gồm các hình thức đa dạng, trong đó HTX là nòng cốt. Phát triển KTTT với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, liên kết rộng rãi các hộ nông dân, người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; bảo đảm lợi ích của thành viên. Khuyến khích phát triển HTX một cách vững chắc, hiệu quả, bảo đảm vai trò làm chủ thực sự của thành viên và mang lại lợi ích cho thành viên. HTX có thể lập ra không bị giới hạn về địa giới hành chính và một người lao động có thể đồng thời là xã viên của nhiều HTX (nếu Điều lệ hợp tác xã không quy định khác). Đối tượng tham gia HTX là các cá nhân (người lao động) hoặc cả cá nhân và pháp nhân. Phát triển HTX kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành.
Mô hình tổ chức và quy mô của KTHT và HTX đa dạng tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi ngành, mỗi vùng khác nhau và nhu cầu cũng như sự tự nguyện của những người lao động có nhu cầu cùng nhau làm một việc hoặc nhiều việc, trong khoảng thời gian, không gian nhất định. Một số mô hình HTX:
+ Mô hình hỗn hợp (kinh doanh tổng hợp), đó là những HTX vừa trực tiếp tổ chức sản xuất, kinh doanh tập trung vừa hoạt động dịch vụ cho hộ xã viên về những khâu, những việc mà từng hộ xã viên không có điều kiện hoặc làm nhưng kém hiệu quả. HTX hỗn hợp là mô hình tổ chức HTX rất có hiệu quả mà nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đã và đang áp dụng như HTX chế biến rượu nho ở Cộng hòa Liên bang Đức, HTX sản xuất rau quả của Đài Loan (Trung Quốc), HTX (Moshaw) chăn nuôi bò sữa của I-xra-en,... Ở nước ta, các vùng sản xuất hàng hóa, kinh tế phát triển, HTX theo mô hình này có ưu thế phát triển sản xuất nông nghiệp, gắn với chế biến và tiêu thụ, kết hợp mở mang các ngành, nghề công nghiệp, thủ công nghiệp và xây dựng nông thôn. HTX vừa có điều kiện tích lũy nhanh từ nhiều nguồn thu khác nhau, hiện đại hóa sản xuất và tạo ra sản phẩm hàng hóa có sức cạnh tranh, vừa phát huy được vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên trong quá trình chuyển sang sản xuất hàng hóa.
+ Mô hình HTX thuần dịch vụ: rất đa dạng cả về quy mô, hình thức tổ chức và lĩnh vực hoạt động, phát triển ở tất cả các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, du lịch... Mô hình này do các thành viên có nhu cầu tự nguyện lập ra, tùy theo luật pháp của mỗi nước quy định số xã viên tối thiểu nhưng có thể mở rộng đến hàng nghìn xã viên, thậm chí hàng vạn xã viên, như HTX tín dụng ở Cộng hòa Liên bang Đức; hình thức tổ chức rất phong phú, đa dạng; có HTX lập ra để hoạt động một, hai hoặc nhiều loại dịch vụ, chuyên phục vụ “đầu vào” hoặc chuyên dịch vụ “đầu ra” của sản xuất hay dịch vụ cả “đầu vào” và “đầu ra”. HTX dịch vụ là loại mô hình tổ chức được các nước khuyến khích phát triển, nhất là những nước có trình độ chuyên môn hóa cao và kinh tế phát triển. Ở nước ta hiện nay, mô hình này hình thành, phát triển mạnh ở một số vùng có điều kiện kinh tế phát triển. Phần lớn còn đơn giản, còn thiếu kinh nghiệm và môi trường chưa thuận lợi nhưng bước đầu đáp ứng được một số nhu cầu trước mắt của xã viên, nhất là dịch vụ cho sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp.
+ Mô hình HTX sản xuất tập trung là loại có ưu thế về xã hội hóa tư liệu sản xuất, có nhiều điều kiện tập trung vốn đầu tư để hiện đại hóa nhanh sản xuất, áp dụng khoa học - công nghệ mới... Song, mô hình này bộc lộ hạn chế trong việc khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực cũng như tinh thần năng động, sáng tạo của từng xã viên do không phù hợp với thực tiễn sản xuất dẫn đến hiệu quả sản xuất không cao, do vậy mà ở các nước có nền kinh tế thị trường ít tồn tại mô hình HTX kiểu này.
- Phát triển KTHT và HTX từng bước, đa dạng về hình thức, quy mô và phạm vi hoạt động, phù hợp với yêu cầu, điều kiện của từng ngành, từng vùng khác nhau:
Trong lĩnh vực nông nghiệp: tập trung phân loại, xử lý các tồn đọng của HTX nông nghiệp, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các HTX hoạt động có hiệu quả, từng bước hướng tới mô hình HTX kiểu mới, giải thể các HTX yếu kém theo luật định. Hình thành các tổ hợp tác, HTX đa dạng từ thấp đến cao theo nhu cầu và tự nguyện của các thành viên lập ra để giúp đỡ, hỗ trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh. Xây dựng và phát triển các HTX kiểu mới kinh doanh tổng hợp (dịch vụ và sản xuất tập trung - mô hình HTX hỗn hợp), các HTX hoặc tổ hợp tác chuyên dịch vụ (dịch vụ chuyên khâu hoặc dịch vụ tổng hợp), như làm đất, thủy lợi, chế biến, cung ứng vật tư,... ở những nơi đủ điều kiện và có nhu cầu dịch vụ cho xã viên và các hộ dân cư quanh vùng, hoặc các HTX sản xuất tập trung nếu xã viên yêu cầu và đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về HTX. Hình thành các tổ hợp tác hoặc HTX chuyên dịch vụ kỹ thuật cung ứng cho các hộ sản xuất những yếu tố kỹ thuật quan trọng, như cung ứng nước (thủy lợi) giống cây, giống con, làm đất, bảo vệ thực vật... theo yêu cầu của các hộ nông dân ở từng địa phương. Khuyến khích phát triển các hình thức KTHT đa dạng trong các cộng đồng ngư dân ở vùng biển về các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ, tìm kiếm ngư trường, bảo vệ sản xuất trên biển.... Hợp tác giữa những người có vốn, có công cụ thuyền, lưới, có kỹ thuật cùng nhau chung vốn, đầu tư phát triển HTX, tổ hợp tác.
Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng: tạo điều kiện để phát triển các HTX theo các ngành, nghề có thế mạnh, chú trọng ở vùng nông thôn, những nơi có nguồn nhân lực và nguyên liệu tại chỗ. Phát triển các HTX chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp có khả năng tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Phát triển rộng rãi các HTX xây dựng, tiêu thụ điện dân dụng, phát triển và bảo vệ môi trường và các loại hình HTX đáp ứng các dịch vụ xã hội cần thiết khác phù hợp với tình hình thực tế từng địa phương. Đồng thời, chú trọng đổi mới trang thiết bị, kết hợp chặt chẽ giữa công nghệ hiện đại và công nghệ truyền thống, từng bước hiện đại hóa quy trình sản xuất của các HTX, tổ hợp tác.
Trong lĩnh vực vận tải: phát triển các hợp tác xã vận tải theo mô hình là HTX dịch vụ hỗ trợ và HTX vận tải, tổ chức mạng lưới vận tải, sửa chữa phương tiện ở từng địa phương nhằm gắn “cung” với “cầu” về vận tải, với các phương tiện đa dạng, an toàn, văn minh phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và tập quán, hình thành một số các nghiệp đoàn, hiệp hội vận tải để tạo mối liên kết giữa các HTX vận tải nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực vận tải.
Trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ: HTX thương mại - dịch vụ phát triển theo yêu cầu thực tế về kinh tế - xã hội và trình độ phát triển và nhu cầu của người tiêu dùng, của các hộ kinh doanh nhỏ, không lệ thuộc vào địa giới hành chính, có thể ở phạm vi thôn, xã hoặc liên thôn, liên xã, liên bản làng. Vùng nông thôn chủ yếu là phát triển các HTX dịch vụ nông nghiệp và kinh doanh thương mại, bao gồm dịch vụ “đầu vào, đầu ra” cho hộ nông dân và cung ứng hàng tiêu dùng cho dân cư nông thôn. Ở những thị trấn, thị tứ có chợ gồm nhiều hộ buôn bán nhỏ có thể hướng dẫn thành lập HTX thương mại để giúp đỡ nhau về thông tin giá cả, tạo nguồn hàng và giải quyết những rủi ro trong quá trình kinh doanh.
Trong lĩnh vực tín dụng: xây dựng hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, bảo đảm hoạt động an toàn, hiệu quả, vững mạnh về tổ chức, liên kết chặt chẽ trong hệ thống từ Trung ương đến cơ sở, coi trọng chất lượng là chính, chỉ phát triển các quỹ mới khi có đủ các điều kiện, đủ tiêu chuẩn, có khả năng kiểm soát và quản lý, trước mắt tập trung hoạt động ở địa bàn nông thôn là chủ yếu, địa bàn thị xã, thị trấn có cơ cấu kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ có nhu cầu vốn tín dụng lớn và có khả năng huy động vốn tại chỗ.
Đối với vùng đô thị và ven đô thị, đông dân cư, sản xuất hàng hóa, dân trí phát triển, chú trọng phát triển HTX trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sản xuất, dịch vụ đời sống, xây dựng.
Đối với vùng nông thôn, thúc đẩy phát triển các hình thức HTX, tổ hợp tác dịch vụ “đầu vào, đầu ra” của những người lao động nhằm phục vụ các nhu cầu sản xuất nông nghiệp, đồng thời gắn kết người lao động với các tổ chức sản xuất của Nhà nước và các thành phần kinh tế khác (trong mối quan hệ giữa sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm).
Đối với vùng trung du, miền núi, chú trọng phát triển các loại hình hợp tác giản đơn giữa các hộ gia đình nhằm giải quyết nhu cầu sản xuất tự túc, tự cấp cần sự hỗ trợ của Nhà nước để phát triển KTTT, trong đó tập trung hỗ trợ kỹ thuật đồng thời với các giải pháp tạo sinh kế, việc làm, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo.
Ba là, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển KTTT:
- Khẩn trương sửa đổi, bổ sung Luật Hợp tác xã năm 2012, tạo khung khổ pháp luật thông thoáng, minh bạch, khuyến khích, hỗ trợ phát triển KTTT, HTX, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, “Cải cách thủ tục hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch”(3).
Ưu tiên phát triển HTX khu vực nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ, trang trại phát triển, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, trật tự xã hội ở nông thôn. Tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức KTTT chủ động vươn lên, vượt qua các khó khăn, nhanh chóng khắc phục những hạn chế, yếu kém, củng cố tổ chức, nâng cao năng lực quản lý, điều hành và hiệu quả hoạt động, phát huy lợi thế vốn có của tổ chức KTTT để tăng cường sức cạnh tranh.
- Rà soát, hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển KTTT, đặc biệt là chính sách đất đai, đầu tư; chính sách cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao trình độ cán bộ quản lý sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường; chính sách ưu đãi, hỗ trợ về tài chính - tín dụng, khoa học - công nghệ và thị trường. Có chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với tổ chức KTTT hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và đối tượng thành viên là nông dân nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Xử lý dứt điểm công nợ của các HTX, hoàn thiện thủ tục giải thể bắt buộc và chuyển đổi sang loại hình tổ chức khác, có chế tài xử lý vi phạm phù hợp với tình hình thực tế.
Nâng cao năng lực tổ chức, hoạt động của HTX, liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho thành viên. Kịp thời phát hiện, biểu dương, khen thưởng nhân rộng, tổng kết các mô hình HTX hoạt động có hiệu quả, từng bước khẳng định KTTT, HTX là nhân tố quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Bốn là, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên trong phát triển KTTT.
- Các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu của mỗi bộ, ban, ngành Trung ương, địa phương cần xác định rõ trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nghị quyết và quy định của pháp luật, chính sách về phát triển KTTT, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực tế cho thấy, ở đâu cấp ủy, chính quyền, đặc biệt người đứng đầu quan tâm thì ở đó KTTT, HTX phát triển và chính sự phát triển đó góp phần rất tích cực cho nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an sinh của địa phương.
- Các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới phương thức học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các quan điểm, nhiệm vụ tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT, đưa KTTT thực sự là thành phần kinh tế quan trọng, góp phần cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Tăng cường công tác nghiên cứu, làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về KTTT, HTX, vận dụng sáng tạo trong thực tế và có biện pháp nhân rộng các mô hình tổ chức KTTT điển hình tiên tiến.
- Kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về KTTT, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả, tập trung và thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn và cơ chế phối hợp của các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương và địa phương trong phát triển KTTT. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng và có chính sách cán bộ phù hợp, bảo đảm nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực trong phát triển KTTT. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật về KTTT.
- Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể phối hợp chặt chẽ trong tổ chức triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển KTTT, KTHT. Phát huy vai trò của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong tuyên truyền, vận động, thuyết phục, huy động sử dụng có hiệu quả nguồn lực phát triển HTX./.
-----------------
(1), (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 129, 129 - 130
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 224