Kinh tế xanh - Yêu cầu tất yếu của phát triển
09:07, ngày 26-11-2025
TCCS - Mô hình kinh tế xanh với cách tiếp cận hài hòa về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và công bằng xã hội được coi là xu hướng phát triển tất yếu của thế giới. Trong bối cảnh đó, cùng với kinh tế số, việc phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và mô hình tăng trưởng bền vững khác đã sớm được định hướng trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, tạo hành lang thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế xanh trong giai đoạn mới.
Tổng Bí thư Tô Lâm dự Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành nông nghiệp và môi trường; Đại hội thi đua yêu nước lần thứ nhất của Bộ Nông nghiệp và Môi trường _Nguồn: nongnghiepmoitruong.vn
Thực tế thế giới đã chứng minh, mô hình kinh tế nâu(1) để lại hệ lụy nghiêm trọng, như không khí, nguồn nước và đại dương bị ô nhiễm; đất đai bị suy thoái; diện tích rừng bị thu hẹp; đa dạng sinh học bị suy giảm; phát thải khí gia tăng làm biến đổi khí hậu với quy mô toàn cầu. Tác động này không chỉ đe dọa môi trường sống của con người, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Trước thách thức toàn cầu, Liên hợp quốc đã thông qua Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững với 17 nhóm mục tiêu (SDGs); đồng thời, xây dựng nhiều văn kiện quốc tế quan trọng nhằm bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tiêu biểu là Thỏa thuận Pa-ri về biến đổi khí hậu hướng tới phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh - Môn-trê-an 2022 với cam kết đến năm 2030 phải bảo tồn 30% diện tích đất liền và biển. Trong bối cảnh đó, mô hình kinh tế xanh với cách tiếp cận hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và công bằng xã hội được coi là xu hướng phát triển tất yếu, ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế.
Việt Nam đã đạt nhiều kết quả tích cực trong thực hiện các mục tiêu SDGs đến năm 2030, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Tuy nhiên, đất nước cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức cần giải quyết, như khan hiếm tài nguyên và năng lượng cho phát triển; tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường chưa được khắc phục căn bản; đa dạng sinh học suy giảm; biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng với các hiện tượng, như nước biển dâng, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long, lũ lụt và sạt lở ở miền núi, thiên tai cực đoan gây thiệt hại nặng nề... Trong bối cảnh đó, cùng với kinh tế số, việc phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và mô hình tăng trưởng bền vững khác đã sớm được định hướng trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm thực hiện thành công các mục tiêu SDGs.
Kinh tế xanh và vai trò đối với phát triển bền vững
Theo Chương trình môi trường Liên hợp quốc (UNEP), kinh tế xanh là “nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể nguy cơ về môi trường và suy giảm sinh thái”. Hiểu một cách ngắn gọn, kinh tế xanh chính là nền kinh tế các-bon thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo đảm công bằng xã hội, thể hiện qua công thức phổ quát sau: (Xem hình).

Có ba nhóm động lực chính thúc đẩy quốc gia, doanh nghiệp và người dân hướng đến kinh tế xanh, đó là: i- Hệ quả nội tại của mô hình kinh tế nâu (sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, khai thác quá mức tài nguyên và sản xuất gây ô nhiễm khiến môi trường suy thoái, khí hậu biến đổi, chi phí xã hội và kinh tế ngày càng lớn); ii- Áp lực dân số và đô thị hóa (sự gia tăng dân số, thay đổi nhu cầu tiêu dùng và xu hướng đô thị hóa nhanh chóng đòi hỏi mô hình phát triển mới, tiết kiệm và bền vững hơn); iii- Lợi ích kinh tế xanh mang lại (trên cả 3 khía cạnh kinh tế - nâng cao năng suất, tạo thị trường mới; xã hội - việc làm xanh, công bằng xã hội và môi trường - bảo tồn tài nguyên, giảm phát thải).
Theo UNEP, kinh tế xanh không chỉ tạo động lực cho nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn, mà còn giúp hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu. Về dài hạn, kinh tế xanh được chứng minh có khả năng tăng trưởng nhanh hơn so với kinh tế nâu, bởi kinh tế xanh giảm thiểu chi phí ngoại lai và tổn thất môi trường, đồng thời gia tăng lợi ích cho con người. Đặc biệt, kinh tế xanh là con đường để đạt được 17 mục tiêu SDGs của Liên hợp quốc. Trên hành trình này, yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường - công nghệ phải được kết hợp chặt chẽ và vận hành trong một hệ thống quản trị minh bạch, hiệu quả.
Phát triển kinh tế xanh là một lộ trình dài hạn, gắn liền với tiến trình đổi mới và hợp tác toàn cầu, trong đó: Về xã hội: đổi mới nhận thức, giáo dục, kỹ năng và tạo thêm nhiều việc làm xanh. Về môi trường: đổi mới cách tiếp cận vòng đời sản phẩm, nâng cao hiệu quả tài nguyên, thúc đẩy tái chế và tái sử dụng. Về kinh tế: phát triển thị trường, chuỗi giá trị, công cụ tài chính - đầu tư xanh; hoàn thiện chính sách khuyến khích sản xuất và tiêu dùng bền vững. Về quản trị: đổi mới cách thức hoạch định chính sách, nâng cao năng lực quản trị, tăng cường hợp tác quốc tế, qua đó tạo động lực xuyên suốt cho phát triển bền vững.
Hiện nay, phát triển kinh tế xanh đang trở thành xu thế chủ đạo trên thế giới, được nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và người dân coi là hướng đi tất yếu nhằm dung hòa mục tiêu tăng trưởng về kinh tế với bảo đảm việc làm, công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu áp lực về trữ lượng tài nguyên thiên nhiên, năng lượng, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Từ kinh nghiệm của các quốc gia tại khu vực châu Âu, châu Mỹ, châu Á về phát triển kinh tế xanh, các quốc gia tiên phong, như Đức, Đan Mạch, Hà Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Cộng đồng kinh tế ASEAN..., có thể nhận diện một số xu hướng nổi bật sau:
Thứ nhất, cam kết chính trị mạnh mẽ và thể chế hóa bằng chính sách. Chính phủ các nước ngày càng coi cam kết xanh là nền tảng cho chiến lược phát triển quốc gia. Hơn 140 quốc gia đã công bố mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào giữa thế kỷ XXI; đồng thời, thúc đẩy cắt giảm khí nhà kính và chuyển sang năng lượng sạch theo Hiệp định Pa-ri về biến đổi khí hậu (năm 2015). Bên cạnh đó, các quốc gia ban hành chiến lược và kế hoạch triển khai 17 mục tiêu SDGs với trọng tâm vào năng lượng sạch, sản xuất, tiêu dùng bền vững và hành động vì biến đổi khí hậu.
Thứ hai, thúc đẩy chuyển đổi năng lượng. Xu thế toàn cầu tập trung phát triển mạnh mẽ nguồn năng lượng tái tạo, như điện mặt trời, điện gió, thủy điện và hydro xanh. Song song, các quốc gia cơ cấu lại dòng vốn đầu tư và ngân sách, hạn chế dự án tiêu tốn năng lượng, phát thải lớn, gây ô nhiễm môi trường. Công nghệ và thiết bị lưu trữ, truyền tải năng lượng... được ưu tiên phát triển nhằm nâng cao an ninh năng lượng và giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.
Thứ ba, phát triển kinh tế tuần hoàn và tiêu dùng bền vững. Mô hình kinh tế tuần hoàn đang được triển khai rộng rãi, hướng tới tối ưu hóa vòng đời của nguyên liệu và vật liệu, giảm thiểu chất thải và tác động xấu đến môi trường. Các sáng kiến “3R” (Reduce - Reuse -
Recycle) được áp dụng từ thiết kế đến sản xuất, phân phối, tiêu dùng và xử lý chất thải. Trên nền tảng đó, nhiều quốc gia hình thành chuỗi cung ứng bền vững, thúc đẩy việc làm xanh và lan tỏa lối sống xanh thân thiện với môi trường.
Thứ tư, đổi mới tài chính xanh và xanh hóa ngân sách. Một xu hướng quan trọng là cấu trúc lại hệ thống tài chính theo hướng xanh, bao gồm: i- Gia tăng tỷ trọng vốn vay và đầu tư cho dự án xanh, tuần hoàn, thân thiện với môi trường, thực hiện ESG (môi trường, xã hội và quản trị); ii- Áp dụng công cụ thị trường, như thuế các-bon, tín chỉ các-bon, tiêu chuẩn xanh, qua đó điều chỉnh hành vi sản xuất và tiêu dùng; iii- Huy động nguồn lực tư nhân, khuyến khích đầu tư xanh; iv- Xanh hóa ngân sách nhà nước thông qua mua sắm công xanh và phân bổ vốn cho lĩnh vực ưu tiên chuyển đổi xanh.
Thứ năm, thúc đẩy công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nhiều quốc gia đi đầu nghiên cứu, phát triển công nghệ sạch, như hydrogen, pin nhiên liệu, thu hồi và lưu trữ các-bon. Đồng thời, chuyển đổi số đang được tích hợp với kinh tế xanh, như ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT) trong quản lý năng lượng, giám sát phát thải, phát triển nông nghiệp thông minh và bền vững dựa trên canh tác các-bon thấp, hữu cơ, tuần hoàn, giảm phân bón hóa học và hóa chất nông nghiệp.
Phân loại bưởi xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Việt Nam từng bước hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển kinh tế xanh
Thời gian qua, hệ thống chính sách, pháp luật nhằm hình thành và vận hành mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính được Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo bằng những định hướng, chiến lược, chính sách cụ thể. Việt Nam bước đầu xây dựng được một khung chính sách, pháp luật tương đối đồng bộ, kịp thời, phù hợp với đặc thù từng ngành, lĩnh vực, địa phương. Nhiều tỉnh, thành phố, như Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng,... đã cụ thể hóa định hướng này bằng kế hoạch, đề án và hành động thiết thực, qua đó huy động nguồn lực đầu tư cho kinh tế xanh gắn với đặc thù, lợi thế phát triển.
Triển khai nghị quyết của Đảng, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021- 2030, pháp luật về bảo vệ môi trường, Việt Nam đã hình thành khung chính sách khá toàn diện, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy áp dụng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn phù hợp với yêu cầu và điều kiện của Việt Nam. Một số chính sách điển hình gần đây có vai trò kiến tạo nền tảng pháp lý cho phát triển kinh tế xanh, như Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ(2), đồng thời lồng ghép kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn vào các đạo luật mới ban hành, như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên nước, Luật Đất đai, Luật Địa chất và Khoáng sản...
Thời gian qua, bộ, ngành, địa phương, hiệp hội ngành, nghề đã chủ động nghiên cứu, đề xuất sáng kiến, lộ trình và giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy chuyển đổi xanh. Điều này không chỉ giúp củng cố cơ sở khoa học, hoạch định chính sách, mà còn lan tỏa nhận thức và kỹ năng để cộng đồng doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân từng bước áp dụng mô hình sản xuất xanh.
Trên thực tiễn, xu hướng xanh hóa sản xuất và tiêu dùng đã và đang trở thành động lực chủ đạo thể hiện ở ba khía cạnh nổi bật:
Một là, xanh hóa sản xuất, kinh doanh ở nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau, điển hình như: i- Ngành năng lượng phát triển năng lượng tái tạo (điện gió, mặt trời, nhiên liệu bền vững); ii- Ngành nông nghiệp ứng dụng mô hình canh tác thông minh, giảm phát thải, bảo vệ môi trường; iii- Ngành xây dựng và giao thông mở rộng hạ tầng xe điện, giao thông công cộng sạch, áp dụng tiêu chuẩn công trình xanh (Lotus, LEED, EDGE, Green Mark...); iv- Lĩnh vực chế biến, chế tạo, khu công nghiệp đã có nỗ lực áp dụng giải pháp của kinh tế tuần hoàn (nhựa, dệt may, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm...), phát triển du lịch xanh, du lịch sinh thái, phát triển khu công nghiệp sinh thái, khu công nghiệp tuần hoàn...
Hai là, xanh hóa tiêu dùng. Một số bộ, ngành và địa phương bắt đầu áp dụng mua sắm công xanh đối với công trình, dự án sử dụng ngân sách nhà nước. Một số thành phố lớn, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành lộ trình, đầu tư xây dựng hạ tầng phục vụ phát triển giao thông xanh, giảm chất thải nhựa. Một số siêu thị, trung tâm thương mại đã thí điểm triển khai, nhân rộng sáng kiến tiêu dùng xanh, giảm chất thải nhựa, thúc đẩy sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường, sản phẩm xanh, hóa chất xanh được người dân quan tâm. Nhiều cộng đồng dân cư đã có sáng kiến, mô hình tốt trong phân loại, thu gom và xử lý chất thải hiệu quả theo hướng kinh tế tuần hoàn.
Ba là, xanh hóa tài chính và đầu tư. Thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho thấy, từ năm 2017 đến nay, tín dụng xanh tăng trưởng tích cực với tốc độ hơn 20%/năm, chiếm khoảng 4% tổng dư nợ tín dụng của toàn nền kinh tế. Một số doanh nghiệp, ngân hàng thương mại từng bước tiếp cận trái phiếu xanh để huy động vốn từ thị trường tài chính quốc tế.
Chính sách và thực tiễn kể trên đang dần hình thành nền móng thể chế và động lực kinh tế - xã hội cho quá trình chuyển đổi xanh. Việt Nam khẳng định quyết tâm đi đầu trong khu vực ASEAN, đồng thời chủ động hội nhập với xu thế phát triển bền vững toàn cầu, tạo tiền đề để hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng “0” năm 2050 và mục tiêu phát triển bền vững.
Nền nông nghiệp Việt Nam chuyển đổi theo hướng sinh thái, giảm phát thải, đóng góp vào phát triển kinh tế xanh
Tương tự nền kinh tế xanh, nông nghiệp xanh là mô hình sản xuất chú trọng sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học. Đây là mô hình hướng tới sự hài hòa giữa sản xuất và môi trường, đề cao tính bền vững sinh thái và khả năng phục hồi của hệ thống nông nghiệp.
Mục tiêu cơ bản của nông nghiệp xanh là: i- Tạo ra sản phẩm chất lượng cao, gắn với an toàn thực phẩm; ii- Hình thành việc làm xanh, cải thiện sinh kế cho nông dân; iii- Duy trì và phát triển nguồn vốn tự nhiên (đất, nước, hệ sinh thái, đa dạng sinh học); iv- Thúc đẩy canh tác phát thải thấp, tiết kiệm tài nguyên, thích ứng biến đổi khí hậu. Một số mô hình điển hình bao gồm nông nghiệp hữu cơ, sử dụng phân bón sinh học, quản lý tổng hợp dịch hại (IPM), tiết kiệm, tái sử dụng nước và phụ phẩm nông nghiệp. Trong bối cảnh của chuyển đổi số, nông nghiệp xanh gắn chặt với nông nghiệp thông minh, ứng dụng IoT, AI, dữ liệu lớn để giám sát đất, nước, thời tiết, tối ưu phân bón, kiểm soát dịch bệnh và cải thiện chuỗi cung ứng nông sản.
Ngành nông nghiệp nước ta đóng góp gần 12% GDP và tạo sinh kế cho gần 60% dân số nông thôn. Tuy tỷ trọng có xu hướng giảm do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng nông nghiệp vẫn là trụ cột an ninh lương thực quốc gia, bảo đảm ổn định xã hội, bảo vệ môi trường. Từ năm 2021 đến nay, dù phải đối diện với các vấn đề lớn, như đại dịch COVID-19, biến đổi khí hậu và bất ổn địa chính trị toàn cầu, ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng trung bình 3,64%/năm. Kết quả này khẳng định vai trò “bệ đỡ” vững chắc của nông nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân.
Từ năm 2010, ngành nông nghiệp chủ động cơ cấu lại theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Quyết định số 150/QĐ-TTg, ngày 28-1-2022, của Thủ tướng Chính phủ “phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050” xác định mục tiêu phát triển nông nghiệp sinh thái thông qua áp dụng tiêu chuẩn canh tác bền vững, nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải. Đây là bước ngoặt quan trọng, tạo khung định hướng chuyển đổi xanh cho toàn ngành.
Kết quả chuyển đổi theo các lĩnh vực nổi bật như sau:
Đối với trồng trọt, cơ cấu cây trồng được điều chỉnh theo hướng đa tầng - đa giá trị trên cùng diện tích; tổ chức sản xuất theo chuỗi sản phẩm chủ lực quốc gia; phát triển nông nghiệp sạch, hữu cơ, sản phẩm đặc hữu địa phương, sử dụng giống chất lượng cao. Nhân rộng quy trình sản xuất lúa chất lượng cao, an toàn, hữu cơ, như “ba giảm, ba tăng”, “một phải năm giảm”, “một phải sáu giảm”, xuống giống “tập trung né rầy”, giảm lượng giống gieo sạ, bón phân theo chuyên vùng, tưới nước tiết kiệm, tưới khô xen kẽ... Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất trong nhà kính và nhà lưới, hệ thống tưới tự động, công nghệ thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ quy mô lớn ứng dụng hệ thống máy tính gắn trong vườn trồng hoa để tự động kiểm soát thông số kỹ thuật về độ ẩm, không khí, ánh sáng, tốc độ tăng trưởng của cây trồng.
Trong chăn nuôi, đã diễn ra quá trình chuyển đổi mạnh mẽ từ hình thức chăn nuôi nông hộ, nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung, quy mô trang trại, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao. Mô hình chăn nuôi áp dụng quy trình thực hành nông nghiệp VietGAP, mô hình liên kết trong chăn nuôi theo hướng sinh thái, xanh, hữu cơ đem lại hiệu quả kinh tế cao; chăn nuôi hữu cơ, chăn nuôi truyền thống theo hướng sản xuất hàng hóa chất lượng cao, an toàn, nhất là đối với khu vực chăn nuôi nông hộ đang dần được phổ biến, nhân rộng phù hợp với định hướng phát triển xanh.
Ở lĩnh vực lâm nghiệp, tổng trữ lượng rừng quốc gia đã có xu hướng tăng trở lại, với mức tăng bình quân khoảng 2,4%/năm. Cấp chứng chỉ rừng quản lý bền vững (FSC và VFCS/PEFC) lũy kế đến năm 2023 là 610 nghìn ha, vượt 20% mục tiêu đến năm 2025.
Ngành thủy sản đẩy nhanh phát triển bền vững cả nuôi trồng và khai thác; điều chỉnh cơ cấu nuôi, phát triển vùng, mô hình nuôi ứng dụng công nghệ cao, an toàn sinh học, công nghệ thân thiện với môi trường.
Ngành thủy lợi cũng đã điều chỉnh cơ cấu đầu tư, phát triển tưới tiên tiến, tiết kiệm nước, nhằm đáp ứng sát hơn với nhu cầu cơ cấu lại ngành nông nghiệp và thúc đẩy phát triển bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu và thiên tai gia tăng.
Chuyển đổi xanh trong nông nghiệp không chỉ bảo đảm phát huy hiệu quả trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, mà còn nâng cao khả năng chống chịu trước biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh. Đây chính là nền tảng để Việt Nam xây dựng nền kinh tế xanh, nông nghiệp sinh thái trong giai đoạn tới.
Cánh đồng điện gió ở tỉnh Cà Mau _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Giải pháp phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam
Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức về khan hiếm nguồn lực tài nguyên thiên nhiên cho phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng ô nhiễm và suy thoái môi trường, tác động ngày càng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, suy giảm đa dạng sinh học... Bên cạnh đó, mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn vẫn còn ở giai đoạn thử nghiệm, chưa phát triển mạnh mẽ; yếu tố môi trường và khí hậu chưa thực sự đặt ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Trong khi đó, thị trường quốc tế yêu cầu ngày càng khắt khe về tiêu chuẩn sinh thái, giảm phát thải khí nhà kính.
Dù Đảng, Nhà nước quan tâm thúc đẩy tăng trưởng xanh, nhưng thực tiễn triển khai vẫn còn một số hạn chế, như thể chế, chính sách cho kinh tế xanh chưa đầy đủ, thiếu tính đồng bộ; nhận thức, kiến thức của người dân và doanh nghiệp về kinh tế xanh còn hạn chế; nguồn lực tài chính, hạ tầng và nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi xanh; mô hình kinh tế tuần hoàn, sản xuất sạch mới chỉ dừng ở quy mô thí điểm. Để thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, một số giải pháp sau cần được cân nhắc:
Thứ nhất, đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức xã hội: Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục định hướng, nâng cao nhận thức về kinh tế xanh cho các tầng lớp xã hội. Lồng ghép nội dung kinh tế xanh vào chương trình đào tạo cán bộ, doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân, trường đại học, viện nghiên cứu; khuyến khích sáng kiến cộng đồng, phong trào tiêu dùng xanh; tạo dựng cơ chế kết nối, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, dữ liệu về áp dụng kinh tế xanh.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế, chính sách: Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về áp dụng kinh tế xanh. Tiếp tục rà soát, điều chỉnh pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Ban hành hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn, quy chuẩn kinh tế xanh cho Việt Nam, bảo đảm phát huy hiệu quả trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Khuyến khích phân bổ và huy động nguồn lực từ vốn tự nhiên, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững nguồn tài nguyên.
Thứ ba, thúc đẩy khoa học, công nghệ và chuyển đổi số, coi đây là khâu đột phá của chuyển đổi xanh. Triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; xây dựng nền tảng số phục vụ giám sát môi trường, ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo, viễn thám, dữ liệu lớn để quản lý tài nguyên, cảnh báo khí hậu. Thúc đẩy sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải; phát triển cơ sở dữ liệu môi trường và biến đổi khí hậu thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
Thứ tư, có cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và thị trường xanh. Tập trung hỗ trợ tài chính, khoa học, công nghệ, kỹ năng cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ nông dân trong quá trình áp dụng kinh tế xanh. Khuyến khích đổi mới sáng tạo trong hệ sinh thái khởi nghiệp xanh. Tổ chức thí điểm, nhân rộng mô hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ áp dụng biện pháp của kinh tế xanh. Tạo dựng và phát triển thị trường cho hàng hóa, dịch vụ liên quan đến kinh tế xanh, như thúc đẩy phát triển thị trường công nghệ, thiết bị, sản phẩm của ngành công nghiệp môi trường để phát triển kinh tế xanh.
Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực: Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về kinh tế xanh, tăng trưởng xanh cho đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, cho doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân. Chú trọng nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực môi trường, năng lượng, tài chính xanh, công nghệ các-bon thấp.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế: Tận dụng cơ hội từ các công ước, hiệp định quốc tế, huy động nguồn lực tài chính về khí hậu và quỹ môi trường toàn cầu. Chủ động tham gia sâu vào cơ chế thị trường các-bon, sáng kiến tăng trưởng xanh, đa dạng sinh học, kinh tế tuần hoàn của ASEAN và thế giới.
Thực hiện giải pháp nêu trên không chỉ giúp Việt Nam khắc phục hạn chế nội tại, mà còn tận dụng cơ hội để trở thành một trung tâm năng động về kinh tế xanh ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh Đại hội XIV của Đảng đang đặt ra yêu cầu chiến lược: phát triển nhanh và bền vững, hiện đại hóa đất nước trên nền tảng kinh tế xanh - kinh tế số - kinh tế tuần hoàn. Kinh tế xanh cần được xác định là dòng chủ đạo của mô hình tăng trưởng mới, góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng Việt Nam hùng cường, phồn vinh vào năm 2045.
Kinh tế xanh chính là trụ cột để thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh, phát triển bền vững, gắn chặt với kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và đổi mới sáng tạo. Đây là mô hình phát triển dung hòa giữa ba yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường, đồng thời tạo dựng lợi thế cạnh tranh mới của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. “Chuyển đổi xanh - kiến tạo tương lai bền vững, vì một Việt Nam hùng cường, phồn vinh vào năm 2045” là điều cần hướng tới khi Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới./.
--------------
(1) Kinh tế nâu, theo Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP), là nền kinh tế dựa chủ yếu vào các nguồn năng lượng hóa thạch, khai thác cạn kiệt tài nguyên, chưa quan tâm tới yếu tố xã hội, dẫn tới ô nhiễm môi trường, suy thoái hệ sinh thái và mất cân bằng tự nhiên. “Nâu” ở đây hàm ý tình trạng ô nhiễm môi trường và kém hiệu quả trong sử dụng tài nguyên
(2) Nghị định số 08/2022/NĐ-CP, ngày 10-1-2022, của Chính phủ “Quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường”; Nghị định số 05/2025/NĐ-CP, ngày 6-1-2025, của Chính phủ “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10-1-2022, của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường”; Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, ngày 7-1-2022, của Chính phủ “Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn”, Nghị định số 119/2025/NĐ-CP, ngày 9-6-2025, của Chính phủ “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07-1-2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn”: quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ô-dôn, phát triển thị trường carbon và cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế; Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg, ngày 4-7-2025, của Thủ tướng Chính phủ quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh”: xác định 45 loại hình dự án đầu tư “xanh”, làm cơ sở quan trọng để sàng lọc, ngăn ngừa “tẩy xanh”, phát triển thị trường tài chính xanh và hài hòa với tiêu chuẩn xanh quốc tế (EU, Trung Quốc, ASEAN, CBI...); Quyết định số 222/QĐ-TTg, ngày 23-1-2025, của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về kinh tế tuần hoàn đến năm 2035, trong đó nêu rõ 10 nhóm ngành ưu tiên, phân công trách nhiệm và giải pháp thực hiện. Việt Nam trở thành một trong số ít quốc gia ASEAN tiên phong có lộ trình kinh tế tuần hoàn; Quyết định số 540/QĐ-TTg, ngày 19-6-2024, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án phát triển khoa học và ứng dụng, chuyển giao công nghệ thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đến 2030, tập trung đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến, tăng tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp, bảo vệ môi trường và tạo việc làm xanh; Quyết định số 232/QĐ-TTg, ngày 24-1-2025 phê duyệt Đề án Thành lập và phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam