Hoàn thiện chính sách đối với trí thức trong lĩnh vực khoa học và công nghệ: Thực trạng và một số giải pháp trọng tâm
23:10, ngày 30-05-2023
TCCS - Phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo được Đại hội XIII của Đảng xác định là một trong những đột phá chiến lược của đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu. Đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam chính là hạt nhân quan trọng của tiến trình này; do đó, yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần xây dựng, đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách đối với đội ngũ này trong thời gian tới.
Chính sách về tổ chức khoa học và công nghệ: Thực trạng và những bất cập trong hoạt động khoa học và công nghệ
Ở Việt Nam, theo quy định tại khoản 1, Điều 9, Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013, loại hình tổ chức khoa học và công nghệ (KHCN)(1) bao gồm: 1- Tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện, trung tâm, phòng thí nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử nghiệm và hình thức khác do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định; 2- Cơ sở giáo dục đại học được tổ chức theo quy định của Luật Giáo dục đại học; 3- Tổ chức dịch vụ KHCN được tổ chức dưới hình thức trung tâm, văn phòng, phòng thử nghiệm và hình thức khác. Mỗi loại hình tổ chức KHCN khác nhau sẽ có tính chất và đặc điểm hoạt động KHCN khác nhau, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức KHCN.
Gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1-11-2012, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI, “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” và Luật Khoa học và Công nghệ (Chương 2: Tổ chức khoa học và công nghệ), mục tiêu của các chính sách về tổ chức KHCN hiện hành được xây dựng và cụ thể hóa theo hướng: Trao quyền tự chủ cho các tổ chức KHCN công lập(2) và hình thành doanh nghiệp KHCN(3); cho phép thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh KHCN nước ngoài, tổ chức KHCN, doanh nghiệp KHCN liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong một số lĩnh vực mà Việt Nam có nhu cầu; tạo hành lang pháp lý khuyến khích hình thành tổ chức nghiên cứu và phát triển (NCPT) của doanh nghiệp. Quy định mới về cơ chế tự chủ của tổ chức KHCN công lập(4) cho phép các đơn vị KHCN công lập được quyền tự chủ cao trong xác định và thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài chính, đặc biệt là quyền sản xuất, kinh doanh và hưởng một số ưu đãi như doanh nghiệp. Doanh nghiệp KHCN được quyền ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập doanh nghiệp, lệ phí trước bạ và quyền sử dụng tài sản, đất đai phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Đánh giá về hiệu lực, hiệu quả của chính sách về tổ chức KHCN đã ban hành và thực thi, Kết luận số 50-KL/TW, ngày 30-5-2019, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, chỉ rõ, nhiều nội dung của Nghị quyết số 20-NQ/TW chưa được quán triệt và thực hiện đầy đủ; đồng thời, yêu cầu “Rà soát, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ, giảm đầu mối trung gian, khắc phục tình trạng chồng chéo, dàn trải, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực nghiên cứu. Nâng cao năng lực, hiệu quả bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Kiên quyết thực hiện cơ chế tự chủ đối với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập gắn với trách nhiệm giải trình, chịu sự đánh giá độc lập và từng bước thực hiện phương thức Nhà nước đặt hàng, đấu thầu và cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm cuối cùng”. Minh chứng cho những hạn chế của các chính sách đề ra, chưa đạt được kết quả như mong muốn là số liệu và kết quả nghiên cứu dưới đây; cụ thể là:
Thứ nhất, số liệu tại Bảng 1 cho thấy, số lượng tổ chức KHCN do cơ quan Trung ương thành lập được Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động KHCN là 2.350 tổ chức; số tổ chức KHCN do các tổ chức khu vực ngoài công lập (doanh nghiệp và các hội, liên hiệp hội và các hình thức khác) tại địa phương thành lập là 1.213 tổ chức. Số liệu tổ chức đăng ký hoạt động KHCN cho thấy, tỷ lệ các tổ chức KHCN trong khu vực có sử dụng ngân sách nhà nước là rất lớn (1.987 tổ chức); trong khi đó, số lượng tổ chức KHCN do các doanh nghiệp thành lập trong tổng số 1.213 tổ chức KHCN ngoài công lập ở các địa phương còn rất hạn chế(5), ước tính từ 228 đến 441 tổ chức.
Thứ hai, kết quả điều tra về NCPT của Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia, cho thấy, Việt Nam có 552 tổ chức NCPT với quy mô khác nhau, tập trung chủ yếu ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tổ chức NCPT ở Việt Nam tuy nhiều, nhưng quy mô còn nhỏ: Số tổ chức có quy mô nhân lực dưới 30 người là khá cao, chiếm gần 54%, trong khi số tổ chức có quy mô nhân lực trên 100 người chỉ chiếm chưa đến 15%(6).
Thứ ba, báo cáo kết quả nghiên cứu năm 2016 của Chương trình đối tác Việt Nam và Hàn Quốc chia sẻ kinh nghiệm phát triển (DEEP) vì tầm nhìn Việt Nam, đưa ra các minh chứng cho thấy, sự thiếu khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế dẫn đến áp lực thấp cho các doanh nghiệp trong nước trong việc áp dụng đổi mới công nghệ. Điều này giải thích tại sao các doanh nghiệp lại ít đầu tư cho NCPT và hầu hết các nhân viên NCPT thuộc khu vực nhà nước. Bởi lẽ, có ít nhu cầu từ doanh nghiệp cho nhân viên NCPT cao cấp, nguồn cung bị hạn chế và không tập trung; kết quả là, phần lớn các nhân viên NCPT chỉ tìm việc làm trong các viện NCPT của Nhà nước.
Từ số liệu và các kết quả nghiên cứu nêu trên, sự mất cân đối về cấu trúc - cơ cấu, số lượng và loại hình tổ chức KHCN ở Việt Nam hiện nay được xác định là một trong những vấn đề thực tiễn bất cập, nổi cộm đặt ra trong hoạt động KHCN, là điểm nghẽn, nút thắt trong việc thúc đẩy chuyển giao và ứng dụng công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hệ quả từ vấn đề thực tiễn này là sự phân tán nguồn lực xã hội cho các tổ chức KHCN. Nguồn lực xã hội không tập trung cho các nhóm nghiên cứu mạnh, các nhóm nghiên cứu theo lĩnh vực ưu tiên và các nghiên cứu gắn với việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trọng tâm, trọng điểm của quốc gia. Nguồn lực xã hội, trong đó có nguồn lực từ doanh nghiệp, đầu tư cho hoạt động KHCN còn hạn chế. Đây chính là nguyên nhân cơ bản của việc mất cân đối cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ nhân lực KHCN trong các doanh nghiệp. Trong khi đó, ở các quốc gia phát triển, đội ngũ nhân lực KHCN, trí thức KHCN trong doanh nghiệp mới là nhân tố chủ đạo, quyết định, có vai trò đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự phát triển KHCN của quốc gia.
Chính sách về nhân lực khoa học và công nghệ: Thực trạng và vấn đề thực tiễn đặt ra trong hoạt động khoa học và công nghệ
Gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW và Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013, mục tiêu của các chính sách, pháp luật về nhân lực KHCN hiện hành được xây dựng và cụ thể hóa theo hướng: Ưu đãi trong tuyển dụng đầu vào, bổ nhiệm chức danh, nâng lương vượt bậc, thăng hạng chức danh không qua thi và không phụ thuộc vào thâm niên công tác, đào tạo, bồi dưỡng..., mà dựa trên những thành tích và kết quả cụ thể của cá nhân hoạt động KHCN. Các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học được giao chủ trì nhiệm vụ KHCN cấp quốc gia đặc biệt quan trọng và nhà khoa học trẻ tài năng được cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước hằng năm theo đề xuất, để thực hiện các hoạt động của nhóm nghiên cứu xuất sắc thuộc lĩnh vực chuyên môn; được hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước để công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí khoa học quốc tế có uy tín, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế, xuất bản công trình khoa học có giá trị cao về khoa học và thực tiễn; được hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước để tham dự hội thảo khoa học chuyên ngành ở trong nước và nước ngoài, tổ chức hội thảo khoa học quốc tế chuyên ngành... Ngoài ra, các nhà khoa học được giao chủ trì nhiệm vụ KHCN cấp quốc gia đặc biệt quan trọng được quyền tự chủ về tài chính trong thực hiện nhiệm vụ KHCN, quyền chủ động bố trí và sử dụng nhân lực để thực hiện nhiệm vụ KHCN, được bố trí phương tiện đi lại, nhà ở công vụ...; nhà khoa học trẻ tài năng (là cá nhân hoạt động KHCN dưới 35 tuổi, trình độ tiến sĩ trở lên và có thành tích xuất sắc trong hoạt động KHCN) được ưu tiên xét cấp học bổng nghiên cứu sau tiến sĩ, thực tập, làm việc có thời hạn ở các tổ chức KHCN uy tín ở nước ngoài, được tuyển thẳng vào làm việc trong các tổ chức KHCN công lập(7). Cá nhân hoạt động KHCN là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động KHCN tại Việt Nam, khi đáp ứng các tiêu chí cần thiết về kết quả hoạt động KHCN, về trình độ đào tạo, về kinh nghiệm... sẽ được hưởng các ưu đãi về xuất, nhập cảnh và cư trú; về tuyển dụng, lao động và học tập; về tiền lương, nhà ở; về khen thưởng, vinh danh...(8).
Đánh giá hiệu lực, hiệu quả của chính sách về nhân lực KHCN đã ban hành và thực thi, Kết luận số 52-KL/TW, ngày 30-5-2019, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, chỉ rõ: “Quá trình thực hiện Nghị quyết còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhiều nội dung của Nghị quyết chậm được cụ thể hóa, thể chế hóa, việc tổ chức thực hiện còn thiếu đồng bộ, ít đột phá. Phương thức lãnh đạo, chỉ đạo đối với đội ngũ trí thức chậm đổi mới, chưa theo kịp sự phát triển. Đội ngũ trí thức sáng tạo, chuyên gia đầu ngành còn thiếu nghiêm trọng, đội ngũ kế cận hẫng hụt. Bộ phận trí thức người Việt Nam ở nước ngoài chưa được quan tâm phát huy đúng mức. Cơ chế hành chính quan liêu và tình trạng trì trệ, hình thức, hiệu quả hoạt động thấp trong các đơn vị sự nghiệp công lập, nghiên cứu khoa học, các hội trí thức chậm được khắc phục”. Số liệu và kết quả nghiên cứu dưới đây góp phần phản ánh và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế trên.
Thứ nhất, sự phân bổ nhân lực KHCN trong các lĩnh vực không cân xứng. Tỷ lệ phân bố lực lượng cán bộ nghiên cứu theo lĩnh vực nghiên cứu không thay đổi nhiều trong giai đoạn 2015 - 2019, với khoảng 1/3 cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ (35,37% năm 2019), tương tự là số cán bộ nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn (32,6% năm 2019). Khoảng 1/3 tổng số cán bộ nghiên cứu còn lại gồm khoa học y, dược chiếm gần 14%, khoa học tự nhiên và khoa học nông nghiệp mỗi lĩnh vực có khoảng 9%. Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với 67% dân số sống ở khu vực nông thôn. Việc sản xuất từ các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản có quy mô lớn nhất, nhưng những ngành này chỉ có 13.226 nhân viên NCPT, chiếm 9% tổng số nhân viên NCPT ở Việt Nam.
Thứ hai, năng lực nghiên cứu và sáng tạo của đội ngũ trí thức KHCN Việt Nam còn hạn chế trong việc công bố các ấn phẩm quốc tế và sáng chế đã cấp bằng. Giai đoạn 2015- 2020, tổng số bài báo của Việt Nam đăng trên tạp chí quốc tế là 56.558 bài, trong đó năm 2020 số lượng đã tăng gấp bốn lần so với đầu giai đoạn, từ 4.510 bài lên 18.197 bài, đặc biệt tăng mạnh trong 2 năm vừa qua(9). Trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), giai đoạn 2015 - 2020, Việt Nam đứng thứ 5 về tổng số công bố quốc tế, nhưng đã rút ngắn khoảng cách với các quốc gia khác trong khu vực(10). Bên cạnh đó, số đơn đăng ký sáng chế của người Việt Nam hằng năm có xu hướng tăng dần đều, từ 560 đơn năm 2016 lên 1.020 đơn năm 2020, với tỷ lệ tăng trưởng trung bình hằng năm của cả giai đoạn là 17%. Tuy nhiên, đa số đơn đăng ký vẫn là của người nước ngoài, số đơn của người Việt Nam chỉ bằng 13,26% trong tổng số 7.694 đơn đăng ký sáng chế ở Việt Nam. Trong gần 10 năm qua, tỷ lệ số đơn đăng ký sáng chế hằng năm của người Việt Nam duy trì trong khoảng 11% tổng số đơn đăng ký bảo hộ sáng chế ở Việt Nam(11). So với các nước hàng đầu trong ASEAN, số lượng đơn đăng ký sáng chế của người Việt Nam (720 đơn năm 2019) vẫn còn khá thấp, đứng thứ 5 trong khu vực ASEAN và khoảng cách so với tốp đầu là khá lớn. Cụ thể, trong năm 2019, số lượng đơn đăng ký sáng chế của người Việt Nam chưa bằng một phần tư của In-đô-nê-xi-a (23%) và bằng 42% đơn đăng ký sáng chế của Xin-ga-po. Tương tự như các nước khác trong khu vực, số lượng đơn xin đăng ký sáng chế tại Việt Nam chủ yếu vẫn là của người nước ngoài(12).
Thứ ba, đa số các nhân lực NCPT hiện đang làm việc trong lĩnh vực công. Theo khu vực thực hiện, nhân lực NCPT tập trung nhiều ở các tổ chức giáo dục đại học, chiếm 51,99%, tiếp theo là các tổ chức NCPT với 17,85%. Nhân lực NCPT trong khu vực doanh nghiệp chiếm 15,28%(13). Thực trạng trong các trường đại học ở nước ta hiện nay cho thấy, chỉ có một tỷ lệ nhỏ giảng viên thường xuyên tham gia vào hoạt động nghiên cứu khoa học; sự mất cân đối giữa việc dành thời gian chủ yếu cho giảng dạy với việc ít dành thời gian tham gia vào quá trình NCPT là hiện tượng phổ biến; vấn đề đạo đức khoa học, liêm chính học thuật và tinh thần hợp tác trong nghiên cứu và kỹ năng làm việc theo nhóm của nhân viên KHCN không cao, rất khó để hình thành các nhóm nghiên cứu liên ngành. Các tổ chức KHCN đã thất bại trong việc tuyển mộ sinh viên xuất sắc cho nghiên cứu khoa học cơ bản, khoa học xã hội và nhân văn, dẫn đến sự thiếu hụt sinh viên giỏi cho đào tạo nguồn để trở thành nhà khoa học tài năng trong tương lai.
Có thể khẳng định, năng lực nghiên cứu yếu kém và hệ thống NCPT của Việt Nam bị “phân mảnh” nghiêm trọng (sự rời rạc, thiếu liên kết) giữa các viện nghiên cứu với trường đại học và các doanh nghiệp được xác định là một trong những vấn đề thực tiễn bất cập đặt ra hiện nay trong hoạt động KHCN, là điểm nghẽn, nút thắt trong việc thúc đẩy chuyển giao và ứng dụng công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hệ quả là, năng suất nghiên cứu và hiệu quả phát huy vai trò của đội ngũ trí thức KHCN không cao. Nhu cầu và đề xuất đặt hàng thực hiện sản phẩm KHCN từ các doanh nghiệp còn rất hạn chế, nếu có thì cũng không phù hợp, hoặc không tìm đến được với các tổ chức KHCN; ngược lại, do năng lực nghiên cứu yếu kém dẫn đến khả năng phát triển công nghệ trong các tổ chức KHCN trong nước còn hạn chế và chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp. Điều này dẫn tới những nỗ lực trong thực hiện chính sách kết nối viện nghiên cứu với trường đại học và các doanh nghiệp không thành công. Sự phân mảnh như vậy làm cho giáo dục và nguồn cung cấp nhân lực KHCN khó khăn hơn so với kế hoạch, bởi vì nguồn cung không thể đáp ứng nhu cầu một cách hiệu quả.
Hoàn thiện chính sách đối với trí thức hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ - Một số giải pháp trọng tâm
Thứ nhất, nâng cao nhận thức trong việc nghiên cứu, xây dựng, ban hành và thực thi chính sách đối với trí thức KHCN nói riêng và chính sách hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển KHCN nói chung.
Trước hết, trí thức KHCN hay nhân lực KHCN là một thành tố trong hệ thống của hoạt động KHCN. Mục tiêu và đối tượng tác động của hệ thống chính sách đối với trí thức KHCN không giới hạn trong phạm vi ở khu vực có sử dụng ngân sách nhà nước, mà cả ở khu vực không sử dụng ngân sách nhà nước. Việc nghiên cứu, xây dựng, ban hành và thực thi chính sách đối với trí thức KHCN cần bảo đảm tính phù hợp, khả thi, đồng bộ với các chính sách trong hệ thống của hoạt động KHCN. Để xây dựng, ban hành được chính sách đối với đội ngũ trí thức KHCN hiệu lực và hiệu quả, yêu cầu đầu tiên được xác định là phải nhận thức đúng và đầy đủ về quan điểm và chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động KHCN, bao gồm:
- Phát triển đội ngũ trí thức KHCN thực chất là phát triển đồng bộ cả về chất lượng, số lượng và cơ cấu của đội ngũ trí thức KHCN; phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp và năng lực là những thuộc tính cơ bản của đội ngũ trí thức KHCN; năng suất và hiệu quả hoạt động là thước đo chất lượng của đội ngũ trí thức KHCN. Phát triển đội ngũ trí thức KHCN được thực hiện thông qua công tác đào tạo và trong hoạt động thực tiễn. Các nội dung nêu trên cần được cụ thể hóa trong quá trình nghiên cứu, xây dựng, ban hành và thực thi chính sách đối với trí thức KHCN.
- Bảo đảm các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của đội ngũ trí thức theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đó là: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; có quyền nghiên cứu KHCN, sáng tạo văn học, nghệ thuật. Trong nghiên cứu, xây dựng, ban hành và thực thi chính sách đối với trí thức KHCN, trước hết cần nhận thức đúng về tính chất và đặc điểm của từng loại hình tổ chức KHCN; tôn trọng và bảo đảm quyền của tổ chức và cá nhân tham gia thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học là quyền đề xuất ý tưởng nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu; quyền xác định tên, mục tiêu và nội dung nghiên cứu.
- Thực hiện trách nhiệm của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đó là: Ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu KHCN; bảo đảm quyền nghiên cứu KHCN; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động KHCN. Cần nhận thức đầy đủ vai trò và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc tạo lập môi trường hoạt động KHCN lành mạnh, đánh giá và ghi nhận đúng kết quả lao động khoa học của các tổ chức và cá nhân. Để phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển KHCN, đòi hỏi phải có “ba đúng”; đó là: Nhận thức đúng nhiệm vụ KHCN; tổ chức, thực hiện đúng nhiệm vụ KHCN; đánh giá đúng kết quả thực hiện nhiệm vụ KHCN.
Hai là, quán triệt nhận thức trong việc nghiên cứu, xây dựng, ban hành và thực thi chính sách đối với trí thức KHCN nói riêng và chính sách hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển KHCN nói chung, đó là: Dứt khoát chuyển đổi quy trình ra quyết định trong xây dựng chính sách, pháp luật từ chỗ còn sơ hở, tạo nhiều “mảnh đất” cho tình trạng chủ quan, duy ý chí sang mô hình ra quyết định dựa trên các bằng chứng thực tiễn và khoa học. Trước mỗi quyết sách trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật, nhất thiết phải có các nghiên cứu, khảo sát thực tiễn, làm tốt công tác phân tích, đánh giá chính sách để xác định rõ vấn đề cần giải quyết, nguyên nhân của vấn đề, phương án giải quyết vấn đề, đánh giá tác động và chọn lựa phương án tối ưu. Tuân thủ quy định và quy trình thực hiện đánh giá tác động chính sách, bao gồm: 1- Đánh giá tác động kinh tế; 2- Đánh giá tác động của thủ tục hành chính (nếu có); 3- Đánh giá tác động về xã hội của chính sách; 4- Đánh giá tác động về giới của chính sách (nếu có); 5- Đánh giá tác động về bảo đảm dân chủ, thực hiện trách nhiệm và tuân thủ đạo đức trong hoạch định và thực thi chính sách.
Thứ hai, rà soát, đánh giá hệ thống chính sách, pháp luật về KHCN.
Các cơ quan quản lý nhà nước về KHCN cần có giải pháp thực hiện việc rà soát, đánh giá hệ thống chính sách, pháp luật về KHCN hiện hành; từ đó, xác định các chính sách không còn phù hợp với yêu cầu của thực tiễn phát triển KHCN; xác định được các chính sách có tác động tiêu cực, kìm hãm, cản trở việc thực hiện mục tiêu của các chính sách khác trong hệ thống hoạt động KHCN; đặc biệt là, xác định được những “khoảng trống” chính sách cần sớm được nghiên cứu, xây dựng, ban hành và thực thi, để khắc phục kịp thời những hạn chế và bất cập trong hoạt động KHCN. Do vậy, ở đây, một số kiến nghị, giải pháp cụ thể cần thực hiện là:
- Đề xuất xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoa học và Công nghệ theo hướng: Sửa đổi Điều 26, Luật Khoa học và Công nghệ; theo đó, điều chỉnh tên Điều 26 (thành Đặt hàng nhiệm vụ KHCN), đồng thời quy định: Về đề xuất đặt hàng và đặt hàng thực hiện sản phẩm KHCN; về công bố định hướng nghiên cứu và sản phẩm KHCN để tuyển chọn, giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ KHCN; bổ sung một điều quy định, giao Chính phủ quy định về hoạt động đặc thù trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn; về mua kết quả nghiên cứu để giải quyết, ứng phó với vấn đề khẩn cấp phát sinh trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội; bổ sung một khoản tại Điều 51, giao Chính phủ quy định chi tiết về việc xây dựng kế hoạch KHCN.
- Đề xuất xây dựng nghị định riêng về nhiệm vụ KHCN trình Chính phủ thay thế Chương III và Chương IV, Nghị định số 08/2014/NĐ-CP, ngày 27-1-2014, của Chính phủ, “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học và Công nghệ”. Nghị định về nhiệm vụ KHCN sẽ quy định chi tiết về ý tưởng khoa học, về ý tưởng nghiên cứu do tổ chức và cá nhân đề xuất, về ý tưởng nghiên cứu do bộ, ngành, địa phương đề xuất, về việc xác định nhiệm vụ, về tuyển chọn, về đánh giá nghiệm thu, về sản phẩm khoa học, về hợp đồng nghiên cứu khoa học, về hội đồng khoa học, về quyền và trách nhiệm của các bên,...
Thứ ba, đa dạng hóa các hình thức và phương thức đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức KHCN.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định các đột phá chiến lược, trong đó nhấn mạnh: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”(14). Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII và từ những hạn chế, bất cập trong chính sách về nhân lực KHCN, thời gian tới, các bộ, ngành, địa phương cần tập trung thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ trí thức KHCN phải được thực hiện thường xuyên, liên tục; bảo đảm hài hòa về cơ cấu trình độ chuyên môn, cơ cấu tuổi giữa các thế hệ cán bộ nghiên cứu, cơ cấu giới; đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức KHCN, đặc biệt là đội ngũ trí thức KHCN trẻ. Ngoài đào tạo trí thức KHCN trực tiếp thông qua hình thức với các chương trình, khóa học ở trong nước và nước ngoài, cần đặc biệt coi trọng đào tạo gián tiếp cán bộ nghiên cứu thông qua hình thức hướng dẫn, truyền nghề giữa các thế hệ trí thức KHCN trong từng tổ chức KHCN và giữa các tổ chức KHCN để tạo ra mô hình kế cận giữa các thế hệ.
Hai là, từng bước tích hợp các hình thức và phương thức đào tạo theo chuẩn quốc tế từ bậc tiểu học đến đại học cả ở khu vực công và khu vực tư, để bảo đảm sự phù hợp, nâng cấp hệ thống giáo dục, đào tạo đội ngũ trí thức hiện tại và trong tương lai.
Ba là, xây dựng hệ sinh thái trọng dụng, đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức KHCN theo nguyên tắc giáo dục, đào tạo phải gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ. Các cơ quan quản lý nhà nước cần hoạch định, quy hoạch, điều tiết mạnh nguồn nhân lực được đào tạo trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại và trong tương lai, cả ở trong nước và nước ngoài.
Bốn là, xây dựng lộ trình đầu tư các nguồn lực để phát triển đội ngũ trí thức KHCN theo hướng giảm dần nguồn kinh phí đầu tư từ Nhà nước sang tăng dần các nguồn lực của xã hội; tăng đầu tư cho hoạt động NCPT của đội ngũ trí thức KHCN để có được sản phẩm với hàm lượng tri thức cao, như sáng chế, sáng kiến, giải pháp hữu ích, giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ các ngành thâm dụng tri thức./.
-------------------------
* TS Nguyễn Việt Hòa, Vụ Khoa học và Công nghệ, Ban Tuyên giáo Trung ương, ThS Đỗ Văn Cương, Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Khoa học và Công nghệ
(1) Tổ chức KH&CN là tổ chức có chức năng chủ yếu là nghiên cứu khoa học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ KH&CN, được thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật
(2) Nghị định số 115/2005/NĐ-CP, ngày 5-9-2005, của Chính phủ, “Quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập”
(3) Nghị định số 80/2010/NĐ-CP, ngày 14-7-2010, của Chính phủ, “Quy định về hợp tác, đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ”
(4) Nghị định số 54/2016/NĐ-CP, ngày 14-6-2016, của Chính phủ, “Quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập”
(5) Trong số hơn 1.000 tổ chức KH&CN đăng ký hoạt động tại các sở Khoa học và Công nghệ, có 521 tổ chức công lập và 546 tổ chức ngoài công lập trực thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp ở địa phương (318 tổ chức), các doanh nghiệp và do cá nhân thành lập (228 tổ chức), (Xem: Bộ Khoa học và Công nghệ: Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2013, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2014, tr. 117)
(6) Xem: Bộ Khoa học và Công nghệ: Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam 2020, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2021, tr. 47
(7) Nghị định số 40/2014/NĐ-CP, ngày 12-5-2014, của Chính phủ, “Quy định việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ”
(8) Nghị định số 87/2014/NĐ-CP, ngày 22-9-2014, của Chính phủ, “Quy định về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam”
(9), (10), (11), (12) Xem: Bộ Khoa học và Công nghệ: Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam 2020, Sđd, tr. 67, 73, 74, 77
(13) Xem: Bộ Khoa học và Công nghệ: Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam 2020, Sđd, tr. 51
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 338