Bảy mươi lăm năm quan hệ Việt Nam - Nga: Hợp tác truyền thống, hữu nghị, phát triển
19:30, ngày 14-01-2025
TCCS - Nhìn lại lịch sử quan hệ Việt Nam - Nga trong 75 năm qua (30-1-1950 - 30-1-2025), có thể thấy có không ít những nhân tố bên trong và bên ngoài tác động không thuận tới quan hệ giữa hai nước. Tuy nhiên, bất luận những biến động trên thế giới và ở mỗi nước Việt Nam - Nga, trong suốt ba phần tư thế kỷ qua, truyền thống hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Nga vẫn không hề thay đổi. Đây là một trong những thành tố tạo nên tính chất đặc biệt của mối quan hệ Việt Nam - Nga ngày càng phát triển.
Từ thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức đến quan hệ đối tác chiến lược toàn diện
Sau nhiều năm bôn ba nước ngoài tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra chân lý thời đại, rằng “Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người…”(1). Chính vì vậy, ngày 30-6-1923, Người đặt chân tới thành phố Petrograd(2) (nay là thành phố Saint Petersburg) của nước Nga Xô viết với mục đích qua cuộc sống hiện thực của nước Nga và người dân Nga để củng cố niềm tin đối với chân lý thời đại đó. Dưới ánh sáng của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, trực tiếp là Luận cương của V. I. Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga thành công.
Sau sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng nhiều cách khác nhau đã bày tỏ mong muốn “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(3). Song trong bối cảnh thế giới chia “hai phe, hai cực” với Chiến tranh lạnh diễn ra, việc tìm kiếm “bạn đồng minh” của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ không hề dễ dàng. Trong bối cảnh cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đang diễn ra ác liệt, ngày 14-1-1950, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra Tuyên bố về việc sẵn sàng kiến lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới. Liên Xô (nước Nga lúc bấy giờ) cũng như Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng đó và thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam. Đây là thắng lợi chính trị to lớn, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo đà cho những thắng lợi trên mặt trận quân sự của Việt Nam.
Từ sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao (ngày 30-1-1950), Liên Xô và Việt Nam đã triển khai quan hệ song phương trước hết bằng việc ký kết các hiệp định, hiệp ước hợp tác trên các lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt từ giữa những năm 60 của thế kỷ XX, cùng với sự thay đổi lãnh đạo cấp cao nhất và đường hướng đối ngoại, Liên Xô đã điều chỉnh quan hệ với Việt Nam theo hướng tăng cường viện trợ và công khai ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Từng là đất nước chiến đấu ngoan cường chống phát xít, cũng như từng gánh chịu nhiều đau thương, mất mát, với ý chí sắt đá, Nhà nước và nhân dân Liên Xô đã bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ, chí tình với tinh thần quả cảm quyết chiến đấu đến cùng đánh đuổi quân xâm lược, giành độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam. Sự ủng hộ, giúp đỡ quý báu về nhiều mặt của Liên Xô trong nhiều thập niên đã góp phần không nhỏ vào thành công của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và hàn gắn vết thương chiến tranh của nhân dân Việt Nam. Liên Xô và Việt Nam trên thực tế trở thành đồng minh chiến lược trên mặt trận chống đế quốc, thực dân và chống các thế lực thù địch. Đáng chú ý là từ bối cảnh khốc liệt đó đã nảy sinh tình hữu nghị rất mực trong sáng, thủy chung, sự tin cậy và gắn bó keo sơn giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Liên Xô.
Sau khi Liên Xô giải thể (năm 1991), trong những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, quan hệ Việt Nam - Nga bị suy giảm mạnh trên tất cả các lĩnh vực. Song tình hình đã thay đổi vào giữa những năm 90 của thế kỷ XX, trước hết nhờ những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Nga(4) và những thành công trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của Việt Nam. Lãnh đạo các cấp của hai nước nhận thức được tính cấp bách của việc khôi phục mối quan hệ hợp tác truyền thống, trong đó trước hết là tạo dựng một khuôn khổ, một nền tảng pháp lý mới cho quan hệ Việt Nam - Nga. Từ đó, “Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga” đã được hai nước ký kết ngày 16-6-1994. Đây là văn bản pháp lý thay thế Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Liên Xô và Việt Nam ký kết năm 1978, xác định các nguyên tắc mới cho quan hệ Việt Nam - Nga, đó là: Tôn trọng chủ quyền quốc gia, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng và cùng có lợi(5). Tổng thống Nga Vladimir Putin khẳng định: “Văn kiện mang tính chiến lược này đã mở ra những cơ hội to lớn để củng cố và phát triển tổng thể quan hệ song phương. Trong giai đoạn lịch sử mới, nó đã tạo xung lực mạnh mẽ để quan hệ Nga - Việt phát triển ngày càng năng động”(6). Trên thực tế kể từ thời điểm mang tính bước ngoặt lịch sử này, quan hệ hợp tác Việt Nam - Nga bắt đầu tiến triển tích cực.
Sự kiện đáng chú ý đầu tiên trong phát triển quan hệ hợp tác Việt Nam - Nga là chuyến thăm chính thức Việt Nam đầu tiên của Tổng thống Nga V. Putin (năm 2001), với việc hai nước ký kết Tuyên bố chung về quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam - Nga. Nga là quốc gia đầu tiên mà Việt Nam xác lập quan hệ Đối tác chiến lược. Bản Tuyên bố chung xác định khuôn khổ pháp lý mới cho hợp tác Việt Nam - Nga trên cơ sở tin cậy, chặt chẽ và lâu dài. Trên cơ sở văn bản này cùng với quyết tâm chính trị cao của hai nước, hợp tác chiến lược Việt Nam - Nga ngày càng đi vào chiều sâu, mang lại những kết quả khích lệ. Từ những thành công đó và nhằm mục đích đưa quan hệ Việt Nam - Nga phát triển toàn diện và sâu sắc hơn, hai nước quyết định nâng tầm quan hệ đối tác bằng việc xác lập khuôn khổ hợp tác mới là đối tác chiến lược toàn diện vào tháng 7-2012, trong chuyến thăm Nga của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Khuôn khổ hợp tác này đem đến một luồng sinh khí mới cho quan hệ Việt Nam - Nga ngày càng phát triển trên mọi lĩnh vực.
Trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao, có thể nói, quan hệ Việt Nam - Nga là điểm sáng nổi bật với độ tin cậy lẫn nhau cao và ngày càng được củng cố thông qua chuyến thăm các cấp, nhất là cấp cao cũng như thông qua các cơ chế tham vấn, đối thoại chiến lược thường niên như Đối thoại chiến lược ngoại giao - quốc phòng - an ninh cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao; Đối thoại chiến lược quốc phòng cấp Thứ trưởng,... Việt Nam và Nga phát triển quan hệ trên tất cả các kênh và các lĩnh vực, từ kênh đảng, chính phủ, quốc hội đến hợp tác giữa các tỉnh, thành và đối ngoại nhân dân. Các chuyến thăm cấp cao được hai nước thực hiện khá thường xuyên, tạo ra những chuyển biến quan trọng trong các lĩnh vực hợp tác. Mới đây, trong chuyến thăm lần thứ năm tới Việt Nam của Tổng thống Nga V. Putin (năm 2024), hai nước đã thông qua Tuyên bố chung và ký kết 11 văn kiện hợp tác giữa chính phủ, bộ, ngành, doanh nghiệp hai nước. Chuyến thăm này của Tổng thống Nga V. Putin tạo xung lực mới cho quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga.
Ngoài những lĩnh vực hợp tác song phương, lãnh đạo hai nước thông qua các cuộc gặp chính thức tại mỗi nước và bên lề các hội nghị, các diễn đàn, tổ chức quốc tế... bàn thảo về các vấn đề chính trị - an ninh quốc tế mà hai bên cùng quan tâm, tạo nên sự đồng thuận cao. Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Nga V. Titov khẳng định, Nga coi Việt Nam là một trong những đối tác quan trọng nhất của Nga tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nga coi trọng và mong muốn phát triển quan hệ thực chất với Việt Nam(7).
Hợp tác quốc phòng - an ninh là lĩnh vực hợp tác có bề dày truyền thống giữa hai nước, được đánh giá ổn định, vững chắc, ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực và đạt hiệu quả cao. Việt Nam tiếp tục coi Nga là đối tác chiến lược quan trọng hàng đầu trong lĩnh vực này. Tại Đối thoại chiến lược quốc phòng Việt Nam - Nga lần thứ 6 được tổ chức tại Thủ đô Moskva (tháng 7-2023), lãnh đạo Bộ Quốc phòng hai nước đánh giá quan hệ quốc phòng giữa hai nước tiếp tục được triển khai hiệu quả, phù hợp với các thỏa thuận, cơ chế hợp tác đã thiết lập, cũng như với “Tuyên bố chung về tầm nhìn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga đến năm 2030” (được ký kết tháng 7-2021). Hai nước thống nhất nhận định, quan hệ hợp tác quốc phòng tiếp tục là trụ cột và được ưu tiên phát triển vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trên cơ sở quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam - Nga(8). Mới đây, tại Đối thoại chiến lược quốc phòng lần thứ 7 được tổ chức tại Hà Nội (tháng 12-2024), hai nước tiếp tục khẳng định vai trò trụ cột quan trọng của hợp tác quốc phòng trong tổng thể quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga, tin tưởng rằng kết quả cuộc Đối thoại lần 7 sẽ tạo xung lực để Bộ Quốc phòng hai nước triển khai quan hệ quốc phòng ngày càng thực chất, hiệu quả, thiết thực.
Trên lĩnh vực kinh tế, hợp tác giữa hai nước ngày càng có những thay đổi tích cực, trong 20 năm đầu thế kỷ XXI đã ghi nhận những bước tiến về chất.
Về thương mại, nếu như năm 2000, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - Nga chỉ đạt hơn 363 triệu USD, thì năm 2010 tăng lên gần 2 tỷ USD, năm 2018 đạt hơn 4,5 tỷ USD, năm 2021 là 5,5 tỷ USD, năm 2022 giảm còn 3,553 tỷ USD, năm 2023 là 3,63 tỷ USD, 11 tháng năm 2024 đạt 4,15 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 2,12 tỷ USD, nhập khẩu 2,03 tỷ USD (9). Đáng chú ý từ một nước nhập siêu, kể từ năm 2011 đến nay chủ yếu Việt Nam xuất siêu sang Nga.
Về đầu tư, điểm nhấn là trong những năm gần đây, đầu tư của Việt Nam vào Nga tăng nhanh, nổi bật là đầu tư khai thác các mỏ dầu khí của Nga, là hoạt động của Trung tâm đa chức năng Hà Nội - Moskva. Đặc biệt, Tập đoàn TH True Milk đang thực hiện thành công Dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa khổng lồ, sử dụng công nghệ cao tại Moskva và tỉnh Kaluga (Nga). Ngày 21-5-2024, Tập đoàn TH True Milk đã khởi công thêm Dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tại khu vực Viễn Đông của Nga, nâng tổng số vốn đầu tư của Tập đoàn TH True Milk tại Nga lên 2,7 tỷ USD(10). Ngoài ra có hàng trăm doanh nghiệp vừa và nhỏ 100% vốn của người Việt Nam đang hoạt động sản xuất, kinh doanh khá hiệu quả tại Nga.
Năng lượng là lĩnh vực hợp tác truyền thống, được coi là hiệu quả nhất trong nhiều thập niên qua, đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách hai nước Việt Nam - Nga và được coi là lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa chiến lược với cả hai nước, đặc biệt là dầu khí. Điều đáng nói là hiện nay hợp tác dầu khí Việt Nam - Nga đã có sự phát triển mang tính đột phá về quy mô và lĩnh vực, địa bàn hoạt động. Bên cạnh Liên doanh Vietsovpetro, Gazprom và Rosneft đang gia tăng sự hiện diện ở Việt Nam, còn có liên doanh Rusvietpetro, Vietgazprom, Gazpromviet đang mở rộng hợp tác trong lĩnh vực dầu khí ở cả hai nước.
Quan hệ Việt Nam - Nga trên các lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hóa - giáo dục,… được đẩy mạnh và nâng lên tầm chiến lược, ngày càng đạt kết quả cao hơn, trở thành một trong những trụ cột của quan hệ Việt Nam - Nga. Hoạt động hiệu quả của Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga là một ví dụ điển hình. Đây là cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ hỗn hợp đa ngành về nhiệt đới, được triển khai theo hướng kết hợp nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, đáp ứng lợi ích của cả hai nước và phục vụ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đóng góp không nhỏ vào việc củng cố, phát triển mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga. Đáng chú ý là trong 11 văn kiện hợp tác giữa hai nước ký kết ngày 20-6-2024, có Bản Ghi nhớ về lộ trình thực hiện Dự án Trung tâm Khoa học công nghệ hạt nhân trên lãnh thổ Việt Nam giữa Bộ Khoa học và Công nghệ và Tập đoàn Năng lượng nguyên tử Rosatom Nga. Đây là một dự án lớn, một biểu tượng mới trong hợp tác đi vào chiều sâu của quan hệ Việt Nam - Nga. Tập đoàn Rosatom Nga cũng đang hỗ trợ Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trên lĩnh vực năng lượng nguyên tử, điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh Việt Nam đã sửa đổi Luật Điện lực, trong đó có chủ trương phát triển điện hạt nhân. Trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo, trong 11 văn kiện hợp tác đã nêu trên, có 1 văn kiện ở cấp độ cao là Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Nga về hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học. Hiệp định này thay thế cho Hiệp định tương tự ký kết năm 2005, được kỳ vọng mang lại hiệu quả hợp tác cao hơn. Trên thực tế trong những năm gần đây, mỗi năm Nga đã cấp học bổng cho gần 1.000 sinh viên Việt Nam sang học tập tại các trường đại học của Nga. Bên cạnh đó các hoạt động giao lưu văn hóa - học thuật giữa hai nước cũng diễn ra hằng năm và luân phiên, để lại những ấn tượng và dư âm tốt đẹp trong lòng nhân dân hai nước. Cộng đồng đông đảo người Việt Nam tại Nga đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối hai nền văn hóa Việt Nam - Nga. Hợp tác trong lĩnh vực du lịch mang lại những kết quả tích cực, khi số lượng du khách Nga sang Việt Nam tăng trung bình hằng năm hơn 30%. Nga tiếp tục là 1 trong 10 thị trường tăng trưởng hàng đầu về du lịch của Việt Nam.
Tiếp tục vun đắp nền tảng vững chắc, phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Nga trong bối cảnh mới
Như vậy, cho dù trong 3/4 thế kỷ qua đã có không ít biến thiên, biến động trong lịch sử thế giới và lịch sử mỗi nước Việt Nam - Nga, nhưng “quan hệ song phương đã đứng vững trước các biến động, góp phần củng cố hòa bình, ổn định và an ninh tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới”(11). Tình hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Nga được duy trì bền vững, đặc biệt quý giá. Bởi:
Thứ nhất, quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nga được thiết lập từ rất sớm, trong bối cảnh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ đang tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cam go, quyết liệt. Đáng chú ý là quan hệ giữa Đảng Cộng sản Đông Dương (Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay) và Đảng Cộng sản Liên Xô đã được xúc tiến từ rất lâu trước khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Cụ thể là ngay từ đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Việt Nam đã cử nhiều thanh niên ưu tú sang Liên Xô học tập, nghiên cứu. Trong số đó, nhiều người sau khi trở về nước đã trở thành những nhà lãnh đạo xuất sắc của phong trào cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam thành công vang dội với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945 có sự đóng góp không nhỏ của Đảng Cộng sản Liên Xô và lớp thanh niên, lãnh tụ cách mạng ưu tú thời kỳ đó.
Thứ hai, trong suốt chiều dài lịch sử, giữa Việt Nam và Nga không xảy ra xung đột, mâu thuẫn, tranh chấp trong quan hệ song phương. Quan hệ hợp tác giữa hai nước được xây dựng trên cơ sở vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, an ninh và phát triển của mỗi nước cũng như của thế giới. Đáng chú ý, bất luận những biến động của thế giới, của quan hệ quốc tế cũng như sự thay đổi thể chế chính trị ở Nga sau khi Liên Xô giải thể, tính chất hữu nghị, truyền thống gắn bó giữa chính phủ và nhân dân hai nước Việt Nam - Nga vẫn không thay đổi trong suốt 75 năm qua. Hai nước duy trì mối quan hệ hữu nghị hiếm có, luôn coi nhau là đối tác tin cậy, là bạn bè quan trọng hàng đầu của nhau.
Thứ ba, hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh - kỹ thuật quân sự giữa Việt Nam và Nga là lĩnh vực truyền thống, được coi là một trong những trụ cột và hướng ưu tiên phát triển. Đây là một lĩnh vực quan hệ “giữ vai trò đặc biệt” và “có độ tin cậy cao”, được hai nước nhấn mạnh trong Tuyên bố chung Việt Nam - Nga năm 2024: “Quan hệ hợp tác quốc phòng - an ninh giữ vai trò đặc biệt trong tổng thể quan hệ Việt Nam - Nga, không nhằm chống lại bất kỳ bên thứ ba, có độ tin cậy cao và hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc và quy định của luật pháp quốc tế,...”(12).
Thứ tư, nếu như quan hệ Việt Nam - Nga trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao có độ tin cậy cao, trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh - kỹ thuật quân sự có bề dày truyền thống hợp tác hiệu quả, giao lưu nhân dân sôi động, thì quan hệ kinh tế - thương mại chưa phải là thế mạnh trong tổng thể quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga, trong khi đây lại là lĩnh vực trọng tâm trong quan hệ với các đối tác chiến lược toàn diện khác của Việt Nam. Mặc dù đã có những bước tiến về chất, nhưng thương mại hai chiều Việt Nam - Nga hiện vẫn ở mức thấp trong so sánh với thương mại của Việt Nam với các nước đối tác chiến lược toàn diện khác. Mặc dù đầu tư của Việt Nam vào Nga ở mức khá cao, song đầu tư của Nga vào Việt Nam còn rất khiêm tốn, thấp hơn khoảng 3 lần so với đầu tư của Việt Nam vào Nga.
Từ tính chất của mối quan hệ hai nước như trên, có thể nói, trong tổng thể quan hệ giữa Việt Nam và các nước trong cộng đồng quốc tế nói chung, với các nước đối tác chiến lược toàn diện nói riêng, nhân tố nổi trội tạo nên tính chất đặc biệt của quan hệ Việt Nam - Nga chính là tình hữu nghị thủy chung, sâu sắc. Điều cơ bản tạo nên tính bền vững của quan hệ hữu nghị Việt Nam - Nga là sự tương đồng về cốt cách dân tộc mạnh mẽ và bản lĩnh kiên cường, là ý chí và khả năng vượt qua những thách thức. Tình hữu nghị giữa hai dân tộc được xây đắp trong những năm tháng cam go đấu tranh giành độc lập, chủ quyền của Việt Nam, được thử thách qua những biến thiên, thăng trầm của lịch sử thế giới. Chính vì vậy, lãnh đạo và nhân dân hai nước đã tạo dựng được sự tin cậy chính trị lẫn nhau ở mức cao và độ tin cậy chính trị tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ trong các lĩnh vực hợp tác khác. Tổng thống Nga V. Putin nhấn mạnh: “Những truyền thống về tình đồng chí và tương trợ lẫn nhau được thử thách qua thời gian như vậy đóng vai trò là nền tảng vững chắc để tiếp tục tăng cường quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước”(13).
Tuy nhiên, quan hệ Việt Nam - Nga đến nay chưa tạo dựng được cơ sở quan hệ kinh tế - thương mại đủ mạnh, do đó chưa tương xứng quan hệ chính trị, quy mô nền kinh tế và tiềm năng của hai bên, cũng như với tầm vóc cần có của một mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Do vậy, một số vấn đề đang đặt ra cần giải quyết để nâng cao về chất quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga:
Một là, cũng như đối với các mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện khác, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga được xác lập trên cơ sở lợi ích chiến lược nhiều mặt của cả hai nước, vì vậy trước hết cần ứng xử với mối quan hệ này như một “vấn đề chiến lược” trong chính sách đối ngoại của từng bên. Nhìn tổng thể, sự phát triển của mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện không chỉ phụ thuộc vào nguyện vọng, thiện chí hay những hiệp ước, hiệp định mở đầu, mà còn phụ thuộc rất lớn vào cách tiếp cận có tính chiến lược của mỗi bên. Mối quan hệ song phương sẽ phát triển mạnh mẽ và tương xứng với tính chất đối tác chiến lược toàn diện nếu mỗi bên có nỗ lực nhận thức thấu đáo, trân trọng và khai thác hiệu quả thế mạnh tiềm năng của bên kia. Điều này đúng với các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam nói chung, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nga nói riêng.
Hai là, về tư duy, để ứng phó hiệu quả với bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng, khó lường, cần bám sát và dựa trên những giá trị cốt lõi trong mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga. Đối với Việt Nam, việc tăng cường quan hệ hợp tác với một quốc gia có sự gắn kết về lịch sử, sức mạnh vượt trội về năng lượng, nền tảng khoa học - kỹ thuật vững chắc, vị thế cường quốc thế giới như Nga là hết sức quan trọng(14). Xác định một cách rõ ràng quan điểm này thì mới xử lý hài hòa các mối quan hệ quan trọng khác để phát triển quan hệ Việt Nam - Nga, đó là: Giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; giữa lợi ích kinh tế và lợi ích an ninh, chính trị - ngoại giao; quan hệ giữa Việt Nam và các đối tác chiến lược toàn diện khác nói riêng, các nước trong cộng đồng quốc tế nói chung. Tuy nhiên, giữ vững quan điểm cân bằng trong đường lối “ngoại giao cây tre” với tất cả các mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện là đường lối đối ngoại, ngoại giao đúng đắn của Việt Nam.
Ba là, nếu hai bên đã xác định hợp tác kinh tế là trụ cột, là trọng tâm trong tổng thể quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga, thì rõ ràng phải đặt ưu tiên cao nhất cho việc tìm ra đường hướng, chính sách và giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những khó khăn, tháo gỡ những rào cản, vướng mắc, trở ngại, từ đó nâng cao kim ngạch thương mại song phương và vốn đầu tư, nhất là từ các doanh nghiệp Nga. Chẳng hạn, nếu như sự phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam - Nga tùy thuộc chủ yếu vào sự chủ động của doanh nghiệp hai nước, thì trên thực tế, các doanh nghiệp ở cả hai nước chưa thực sự coi trọng thị trường của nhau do thiếu những khảo sát, nghiên cứu về thị trường. Do đó, trước hết cần chú trọng khâu này trong quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam - Nga. Các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động và tích cực tìm hiểu, nắm bắt đặc điểm và nhu cầu của thị trường Nga, từ đó hoạch định phương thức sản xuất, kinh doanh phù hợp với thị trường Nga nói chung, với các khu vực, tỉnh/thành, địa phương Nga nói riêng. Việt Nam cần có chính sách ưu đãi đối với Nga trong đầu tư vào các dự án lớn thời gian tới như điện hạt nhân, vốn là thế mạnh của Nga. Ngoài ra, cần tăng tỷ lệ thanh toán bằng đồng nội tệ của hai nước, bởi điều này tạo thuận lợi cho quan hệ kinh tế song phương phát triển. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay có bốn lĩnh vực kinh tế then chốt cần được hai bên tăng cường hợp tác: 1- Vận tải hàng hóa và logistics; 2- Năng lượng, nhất là năng lượng tái tạo, điện hạt nhân; 3- Nông nghiệp và sản xuất xanh; 4- Công nghệ số và an toàn không gian số.
Như vậy, mặc dù còn một số khó khăn, hạn chế, song lịch sử quan hệ Việt Nam - Nga trong 75 năm qua cho thấy những bước tiến về chất của mối quan hệ này, mà sợi chỉ đỏ xuyên suốt là tình hữu nghị lâu đời. Đây chính là tài sản chung quý báu của hai đất nước, hai dân tộc Việt Nam - Nga. Chính vì vậy, cả hai nước đều trân trọng mối quan hệ đã được nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước đặt nền móng và dày công vun đắp. Đây chính là nền tảng để quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Tuyên bố chung Việt Nam - Nga một lần nữa khẳng định: “Việc củng cố và nâng cao hiệu quả quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện là một trong những ưu tiên đối ngoại của Việt Nam và Nga, đáp ứng lợi ích lâu dài, góp phần vào sự phát triển của mỗi nước, cũng như nâng cao vai trò của hai quốc gia tại mỗi khu vực và trên thế giới”(15). Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng rằng, các nguyên tắc và định hướng quan hệ hợp tác được nêu trong bản Tuyên bố chung này sẽ được tuân thủ và thực thi hiệu quả, đưa quan hệ Việt Nam - Nga phát triển thật sự tương xứng với bản chất mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, góp phần xứng đáng vào việc thực hiện mục tiêu hòa bình, an ninh và phát triển của mỗi nước./.
------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 388
(2) Năm 1924, Petrograd đổi tên là Leningrad, sau khi Liên Xô giải thể lấy lại tên cũ là Saint Peterburg. Ngày 30-6-2023, nhân kỷ niệm 100 năm ngày lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh đặt chân tới thành phố này, thành phố Saint Peterbourg đã trang trọng tiến hành Lễ khánh thành tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh tại đây. Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Nên đã tham dự Lễ khánh thành.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 256
(4) Xem thêm: Hà Mỹ Hương, Nước Nga hậu Xô viết qua những biến thiên của lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 108 - 120
(5), (14) Xem thêm: Hà Mỹ Hương, Đoàn Anh Tuấn: “Ba mươi năm Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam - Nga: Nền tảng vững chắc thúc đẩy hợp tác trong giai đoạn mới”, Tạp chí Cộng sản, số 1.040 (tháng 6-2024), tr. 104 - 111
(6), (13) Vladimir Putin: “Nga và Việt Nam: Tình hữu nghị được thử thách qua thời gian”, Báo Nhân dân, ngày 20-6-2024, tr. 4
(7) Minh Anh: “Nga coi trọng và mong muốn phát triển quan hệ thực chất với Việt Nam”, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 4-3-2024, https://dangcongsan.vn/preview/newid/660601
(8) Minh Ngọc: “Hợp tác quốc phòng là một trong những trụ cột của quan hệ Việt - Nga”, Báo Quân đội nhân dân điện tử, ngày 7-7-2023, https://www.qdnd.vn/preview/pid/0/newid/733709
(9) Thanh Bình: “Thương mại Nga - Việt Nam tăng mạnh: Cơ hội vàng cho hợp tác công nghiệp song phương”, Báo Công thương điện tử, ngày 26-12-2024, https://congthuong.vn/thuong-mai-nga-viet-nam-tang-manh-co-hoi-vang-cho-hop-tac-cong-nghiep-song-phuong-366318.html
(10) Ngọc Tấn: “Tập đoàn TH khởi công dự án sữa tại Viễn Đông, Liên bang Nga”, Báo điện tử Chính phủ, ngày 22-5-2024, https://bao-chinh-phu.vn/print/tap-doan-th-khoi-cong-du-an-sua-tai-vien-dong-lien-bang-nga-102240522170921131.htm,(11), (12), (15) Trần Thường: “Toàn văn Tuyên bố chung Việt Nam - Liên bang Nga”, Báo điện tử VietNamNet thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, ngày 20-6-2024, https:/vietnamnet.vn/toan-van-tuyen-bo-chung-viet-nam-lien-bang-nga-2293695.html