Chính sách thị thực nhân tài: Đòn bẩy chiến lược trong cạnh tranh nhân tài quốc tế và đề xuất thiết kế chính sách
16:41, ngày 16-12-2025
TCCS - Trong kỷ nguyên kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế sáng tạo, cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt khiến năng lực thu hút và giữ chân nhân tài quốc tế trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia. Chính sách thị thực nhân tài không chỉ là hoạt động quản lý hành chính - nhập cảnh, mà còn là đòn bẩy chiến lược định hình lợi thế cạnh tranh về nhân tài. Các quốc gia sớm xây dựng cơ chế thị thực nhân tài linh hoạt, sáng tạo thường dẫn đầu về năng lực đổi mới và phát triển tri thức. Bởi vậy, Việt Nam cần chủ động thiết kế chính sách thị thực nhân tài mang tính đột phá, gắn kết chặt chẽ với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia để thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tổng Bí thư Tô Lâm và các đại biểu tham quan triển lãm quốc tế về đổi mới sáng tạo với chủ đề “Công nghệ chiến lược - Định hình tương lai Việt Nam” _Ảnh: TTXVN
Vai trò, ý nghĩa đòn bẩy chiến lược của chính sách thị thực nhân tài trong cạnh tranh nhân tài quốc tế
Thứ nhất, làm sâu sắc hơn nội hàm hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả, tạo cơ chế chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực trong mô hình tăng trưởng mới dựa vào động lực lưu chuyển nhân lực trong nước - quốc tế.
Chính sách thị thực nhân tài (talent visa(1), không chỉ mở rộng hợp tác quốc tế, mà còn tác động đến chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực quốc gia. Việc thu hút chuyên gia, nhà khoa học, nhà sáng tạo và doanh nhân công nghệ toàn cầu góp phần cơ cấu lại thị trường lao động theo hướng tri thức hóa, số hóa và xanh hóa, phù hợp với mô hình tăng trưởng mới dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và chuyển đổi năng lượng.
Sự hiện diện của nhân tài quốc tế trong các lĩnh vực then chốt, như công nghiệp công nghệ cao (trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo, vật liệu tiên tiến...), công nghiệp sáng tạo, công nghiệp văn hóa,... giúp rút ngắn quá trình chuyển dịch từ lao động giản đơn sang lao động tri thức, hình thành cụm ngành đổi mới sáng tạo. Nhờ đó, lưu chuyển nhân lực chất lượng cao trong nước - quốc tế trở thành động lực thúc đẩy nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp (TFP), củng cố nền tảng kinh tế tri thức và phát triển bền vững.
Thứ hai, bổ sung nguồn lực và tạo “sân chơi toàn cầu” cho nhân tài.
Một chính sách thị thực nhân tài hiệu quả giúp kết nối và cân bằng giữa nhân lực quốc nội và quốc tế. Khi nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước còn thiếu, kỹ năng hạn chế, đặc biệt là trong AI, quản trị dữ liệu, năng lượng xanh và công nghiệp sáng tạo, thì nhân tài quốc tế có thể bù đắp khoảng trống tri thức và nâng chuẩn nghề nghiệp, chuẩn quản trị sáng tạo. Bản thân nguồn nhân lực trình độ cao của mọi quốc gia đều luôn có nhu cầu tham gia thị trường toàn cầu - nơi năng lực được phát huy và giá trị đóng góp được quốc tế hóa. Thực tế cho thấy, nhân tài quốc tế có mạng lưới xuyên quốc gia; khi dịch chuyển đến một quốc gia sẽ đưa cả mạng lưới và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của quốc gia hội nhập sâu rộng vào hệ thống đổi mới sáng tạo toàn cầu. Nếu được thiết kế khéo léo thì chính sách thị thực nhân tài có ý nghĩa vừa thu hút chuyên gia, nhà khoa học quốc tế, vừa khuyến khích nhân tài Việt Nam hội nhập, chia sẻ tri thức toàn cầu.
Thứ ba, luân chuyển tri thức - điều kiện sống còn của giá trị sáng tạo.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức chỉ thực sự phát huy giá trị đầy đủ khi được lưu chuyển toàn cầu. Nếu đóng kín trong biên giới quốc gia thì tri thức dễ rơi vào lạc hậu vì thiếu tương tác và ứng dụng mới. Chính sách thị thực nhân tài đóng vai trò như “mạch máu” lưu thông tri thức toàn cầu, kết nối nhà khoa học, doanh nhân, nghệ sĩ tài danh theo chuỗi giá trị từ ý tưởng - công nghệ - thương mại hóa - văn hóa sáng tạo. Nhờ đó, các quốc gia chủ động chính sách này không chỉ thu hút, nhập khẩu tri thức, kỹ năng mới, mà còn nâng cao năng lực học hỏi (learning capacity) và tốc độ thích ứng thể chế, yếu tố quyết định vị thế trong nền kinh tế toàn cầu hóa và đổi mới liên tục(2).
Thứ tư, kiểm chứng chính sách và kiến tạo hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Hiệu quả của thị thực nhân tài phụ thuộc vào thiết kế thể chế minh bạch và linh hoạt. Mô hình EU Blue Card (thẻ xanh EU) cho phép người lao động kỹ năng cao tiếp cận thị trường lao động châu Âu và quyền lợi xã hội. Ca-na-đa và Ô-xtrây-li-a gắn thị thực nhân tài với hệ sinh thái khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo, kết hợp đầu tư mạo hiểm, bảo lãnh nghiên cứu và hỗ trợ học thuật, qua đó thu hút nhân tài thành chiến lược công nghiệp sáng tạo. Đây là minh chứng rằng thị thực nhân tài chỉ bền vững khi gắn với mạng lưới đổi mới sáng tạo, cơ chế kiểm chứng chính sách và bảo đảm lan tỏa giá trị.
Thứ năm, gia tăng sức mạnh mềm và vị thế cạnh tranh quốc gia.
Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)(3), những quốc gia duy trì được dòng chảy ổn định của nhân tài chất lượng cao thường sở hữu năng lực đổi mới sáng tạo vượt trội và sức mạnh mềm có ảnh hưởng sâu rộng. Vì vậy, chính sách thị thực nhân tài không chỉ là công cụ quản lý di cư, mà còn là đòn bẩy quyền lực mềm, phản ánh sức hấp dẫn thể chế, tính cởi mở của nền kinh tế và tầm vóc phát triển quốc gia. Quốc gia, nơi nhân tài lựa chọn làm điểm đến, lựa chọn sống, làm việc và gắn bó lâu dài, thường đạt được giá trị thương hiệu, uy tín và ảnh hưởng quốc tế gia tăng rõ rệt. Để bảo đảm phát triển bền vững, chính sách nhân tài cần được thiết kế hài hòa giữa phát huy nội lực và tận dụng ngoại lực, tránh lệ thuộc vào nguồn nhân lực nhập cư, đồng thời ngăn ngừa tình trạng “chảy máu chất xám” và khuyến khích tuần hoàn tri thức toàn cầu.
Kinh nghiệm quốc tế về thúc đẩy chính sách thị thực nhân tài
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu về nhân lực tri thức và đổi mới sáng tạo, nhiều quốc gia đã coi thị thực nhân tài là công cụ đòn bẩy chiến lược để thu hút, giữ chân và tích hợp nguồn lực tri thức cao vào hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Điểm chung của các mô hình thành công là chuyển hóa thị thực nhân tài từ thủ tục hành chính sang công cụ phát triển chiến lược, công cụ cạnh tranh quốc gia, gắn trực tiếp với các ngành mũi nhọn, như công nghệ cao, khoa học, đổi mới sáng tạo, cùng các lĩnh vực công nghiệp sáng tạo - văn hóa - giải trí. Nhờ đó, các quốc gia này vừa bù đắp thiếu sự hụt nhân lực trong nước, vừa tăng năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia.
Hoa Kỳ: Gắn thị thực nhân tài với hệ sinh thái khoa học, công nghệ
Hoa Kỳ là quốc gia tiên phong biến chính sách di trú nhân tài thành đòn bẩy thúc đẩy đổi mới sáng tạo quốc gia. Chương trình thị thực H-1B dành cho người lao động có tay nghề cao trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) không chỉ đáp ứng nhu cầu nhân lực công nghệ, mà còn thu hút tri thức toàn cầu thông qua doanh nghiệp và viện nghiên cứu. Đặc biệt, Chương trình thị thực O-1 (thị thực tài năng toàn cầu - Global Talent Visa) hướng tới những cá nhân “xuất sắc vượt trội” trong khoa học, nghệ thuật và thể thao, được thiết kế linh hoạt và có thể chuyển tiếp sang quyền thường trú, giúp nhân tài gắn bó lâu dài. Nhờ đó, Hoa Kỳ duy trì vị thế “Trung tâm đổi mới sáng tạo toàn cầu”, nơi 40% doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ hàng đầu được người nhập cư sáng lập.
Ca-na-đa và Ô-xtrây-li-a: Gắn thị thực nhân tài với tăng trưởng, đổi mới và công nghiệp sáng tạo
Ca-na-đa triển khai Chương trình dòng chảy tài năng toàn cầu (Global Talent Stream - GTS) - một mô hình tiêu biểu về tốc độ và hiệu quả, với thời gian xử lý hồ sơ chỉ trong hai tuần dành cho chuyên gia công nghệ, kỹ sư trí tuệ nhân tạo và nghệ sĩ tự do. Chính phủ nước này còn mở thị thực đặc thù cho nghệ sĩ và nhà thiết kế, qua đó củng cố vị thế “Trung tâm sáng tạo của Bắc Mỹ”. Ô-xtrây-li-a áp dụng Chương trình tài năng toàn cầu độc lập (Global Talent Independent Program - GTI) dành cho chuyên gia hàng đầu trong mười lĩnh vực chiến lược, như công nghệ tài chính (FinTech), công nghệ nông nghiệp (AgTech), công nghệ y tế (MedTech), năng lượng sạch...), cùng với thị thực hoạt động tạm thời (Temporary Activity Visa) cho nghệ sĩ, nhà nghiên cứu và vận động viên. Cơ chế này được tích hợp trong Chiến lược phát triển công nghiệp sáng tạo quốc gia, kết nối giữa chính sách thị thực, đầu tư mạo hiểm và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.
Châu Âu: Linh hoạt thể chế và hội nhập văn hóa
Tại đây, chính sách thị thực nhân tài được coi là một thành tố trong chiến lược duy trì vị thế về tri thức và sáng tạo. Vương quốc Anh triển khai Chương trình thị thực tài năng toàn cầu (Global Talent Visa) dành cho nhà khoa học, doanh nhân và nghệ sĩ được bảo trợ bởi Hiệp hội hoàng gia (Royal Society) hoặc Hội đồng nghệ thuật (Arts Council), đồng thời ban hành thị thực lao động sáng tạo (Creative Worker Visa) cho nghệ sĩ và chuyên gia văn hóa, qua đó củng cố vai trò “Thủ đô sáng tạo toàn cầu”. Pháp triển khai thị thực hộ chiếu tài năng (Talent Passport) cho phép cư trú dài hạn lên tới 4 năm dành cho chuyên gia và nghệ sĩ quốc tế, đồng thời ban hành thị thực nghệ sĩ (Visa Artiste) nhằm khuyến khích ngoại giao văn hóa và giao lưu sáng tạo quốc tế, khẳng định Pa-ri là “Trung tâm sáng tạo thế giới”.
Một số quốc gia châu Á: Liên kết thị thực nhân tài với tăng trưởng sáng tạo và hội nhập khu vực
Nhiều quốc gia châu Á đang nổi lên với chiến lược kết hợp giữa chính sách thị thực nhân tài và phát triển công nghiệp sáng tạo. Tại Hàn Quốc, thị thực E-6 dành cho nghệ sĩ và chuyên gia truyền thông đã góp phần lan tỏa làn sóng văn hóa Hàn Quốc (Hàn lưu - Hallyu), thúc đẩy công nghiệp giải trí và quảng bá văn hóa quốc gia. Thái Lan triển khai thị thực thông minh (Smart Visa) có thời hạn bốn năm cho nhân lực công nghệ cao, y tế, năng lượng sạch và sáng tạo, giúp thu hút hơn 5.000 chuyên gia quốc tế chỉ trong ba năm đầu thực hiện. Ma-lai-xi-a kết hợp Chương trình “ Ma-lai-xi-a ngôi nhà thứ hai của tôi” (Malaysia My Second Home - MM2H) với thị thực nhân tài trong lĩnh vực công nghệ, giáo dục và sáng tạo, cho phép định cư dài hạn cùng gia đình. Ấn Độ áp dụng thị thực khởi nghiệp sáng tạo (Startup Visa) và thị thực nhân tài toàn cầu (Global Talent Visa) gắn với chính sách “Make in India” và Chiến lược nghiên cứu và phát triển quốc gia, qua đó giúp đất nước này trở thành trung tâm khởi nghiệp lớn thứ ba thế giới, thu hút hơn 100.000 nhà sáng lập quốc tế trong thập niên qua.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, thị thực nhân tài không chỉ là thủ tục hành chính, mà là đòn bẩy chiến lược và công cụ cạnh tranh quốc gia trong nền kinh tế tri thức và kinh tế sáng tạo. Ba nguyên tắc cốt lõi làm nên thành công của mô hình tiên phong bao gồm: 1- Gắn chính sách thị thực với ngành công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và công nghiệp sáng tạo, bảo đảm dòng chảy nhân tài phục vụ mô hình tăng trưởng mới; 2- Bảo đảm lộ trình cư trú dài hạn, cơ chế hội nhập linh hoạt và quyền lợi định cư rõ ràng; 3- Tích hợp thị thực với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, văn hóa và giáo dục, tạo hiệu ứng lan tỏa tri thức (knowledge spillover).
Đây là gợi mở quan trọng cho Việt Nam trong việc xây dựng cơ chế thị thực nhân tài thích ứng với kinh tế tri thức, kinh tế số và công nghiệp sáng tạo, hướng tới hội nhập chủ động, thu hút bền vững và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên toàn cầu hóa tri thức.
Các nghiên cứu viên làm thí nghiệm tại phòng sạch của Trung tâm Nano và Năng lượng, Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội _Nguồn: tiasang.com.vn
Khoảng trống trong chính sách thị thực nhân tài tại Việt Nam
Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ: Khoa học, công nghệ là nền tảng cốt lõi của năng lực cạnh tranh quốc gia, đồng thời là động lực trung tâm của mô hình tăng trưởng mới dựa trên đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Việt Nam đã có bước đi ban đầu trong thu hút chuyên gia nước ngoài thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin, AI, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo, song hiệu quả còn hạn chế do thiếu cơ chế đột phá và chính sách đặc thù cho nhân tài xuất sắc.
Thủ tục thị thực và cấp phép lao động phức tạp, thời gian xử lý còn dài. Việt Nam chưa hình thành được “cửa ngõ nhân tài công nghệ cao” như các trung tâm đổi mới sáng tạo khu vực. Trong khi đó, Xin-ga-po đã triển khai Chương trình thẻ công nghệ - Tech.Pass (năm 2021), cấp thị thực hai năm cho chuyên gia công nghệ với cơ chế linh hoạt, cho phép bảo lãnh gia đình và chuyển doanh nghiệp chủ quản mà không cần thư mời cụ thể(4). Đức áp dụng thẻ xanh Liên minh châu Âu (EU Blue Card), cho phép cư trú dài hạn và định cư sau 33 tháng(5).
Ngoài ra, đầu tư nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam năm 2025 ước tính mới đạt 0,9% GDP, thấp hơn mức trung bình OECD là 2,4%, khiến hạ tầng nghiên cứu và hợp tác quốc tế yếu(6). Điều này làm giảm sức hút với nhân tài quốc tế và khiến nhiều nhà khoa học Việt Nam chuyển sang làm việc tại Xin-ga-po, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí: Hiện nay, ngành công nghiệp văn hóa - sáng tạo đóng góp khoảng 3,1% GDP toàn cầu và tạo hơn 30 triệu việc làm(7). Ở các nước phát triển, thị thực nhân tài văn hóa, nghệ thuật, thể thao chuyên nghiệp được coi là công cụ chiến lược mở rộng sức mạnh mềm.
Tại Việt Nam, hiện nay chưa có loại hình thị thực riêng dành cho nhân lực sáng tạo. Các diện thị thực lao động hoặc doanh nghiệp vẫn áp dụng chung cho mọi ngành, nghề, thiếu tính linh hoạt và chưa phản ánh đặc trưng di động cao, thời hạn dự án ngắn của nghệ sĩ, nhà thiết kế hay vận động viên quốc tế. Trong khi đó, Hàn Quốc đã phát triển Hallyu Visa (E-6) - một chương trình kết hợp giữa chính sách thị thực, bảo hộ quyền tác giả, hỗ trợ pháp lý và phúc lợi xã hội, góp phần lan tỏa sức mạnh mềm Hallyu trên phạm vi toàn cầu. Hiện nay, Việt Nam chưa có cơ chế tương tự, khiến khả năng thu hút nhân tài sáng tạo quốc tế còn hạn chế dù sở hữu nền văn hóa phong phú, đặc sắc và lực lượng sáng tạo trẻ dồi dào tiềm năng(8).
Trong lĩnh vực giáo dục và y tế: Giáo dục và y tế là hai trụ cột của an ninh con người và phát triển bền vững, nơi nhân tài quốc tế có tác động lan tỏa mạnh mẽ. Việt Nam tuy đã có một số lượng nhất định chuyên gia nước ngoài làm việc tại cơ sở giáo dục đại học và bệnh viện lớn, nhưng quy mô còn nhỏ. Tỷ lệ giảng viên quốc tế tại cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam tham gia xếp hạng quốc tế thường chỉ chiếm 1% -2%, trong khi Xin-ga-po đạt khoảng 25% và Hàn Quốc khoảng 15%(9). Một phần nguyên nhân nằm ở chính sách visa và cư trú chưa hấp dẫn, lưu trú ngắn, thủ tục phức tạp, thiếu bảo đảm cho gia đình chuyên gia. Việt Nam cũng chưa có “cổng một cửa” (one-stop visa system) cho nhân tài giáo dục - y tế, dẫn tới quản lý phân tán giữa các bộ, ngành(10). Trong khi đó, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po và Thái Lan đã triển khai visa chuyên biệt cho chuyên gia y tế - giáo dục, cho phép làm việc, nghiên cứu và đào tạo với thủ tục linh hoạt.
Trong lĩnh vực kinh tế, tài chính - ngân hàng, logistics, đô thị và quản lý dự án trọng điểm: Nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, logistics, đô thị và hạ tầng giữ vai trò then chốt trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu. Tuy nhiên, Việt Nam đang thiếu hụt nghiêm trọng chuyên gia có kinh nghiệm quốc tế. Theo IMF(11), Việt Nam thiếu chuyên gia công nghệ tài chính (fintech) và quản trị rủi ro toàn cầu, trong khi đây là năng lực cốt lõi của tài chính số. Thị trường logistics của Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, nhất là tận dụng lợi thế so sánh của vị trí địa lý, cảng biển, cảng hàng không, dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, nhưng thiếu nhân sự điều phối quốc tế. Trong các dự án đô thị, năng lượng tái tạo, giao thông hay khu công nghiệp thông minh, visa lao động chưa có nhóm ưu tiên riêng, khiến huy động chuyên gia toàn cầu gặp khó. Ngược lại, UAE và Qatar đã triển khai Chương trình thị thực vàng (Golden Visa) cho chuyên gia hạ tầng và tài chính, cho phép cư trú tới 10 năm kèm quyền đầu tư và định cư. Việc thiếu cơ chế tương tự khiến Việt Nam giảm lợi thế cạnh tranh nhân lực trong dự án trọng điểm quốc gia.
Cơ hội và thách thức trong phát triển chính sách thị thực nhân tài đa ngành
Theo WEF(12), đến năm 2030, thế giới sẽ thiếu 85 triệu người lao động kỹ năng cao, tạo ra “cuộc đua thị thực nhân tài” toàn cầu. Việt Nam có cơ hội tận dụng làn sóng di cư nhân lực chất lượng cao gắn với dịch chuyển tri thức khi chuyển mạnh sang kinh tế số, đổi mới sáng tạo và phát triển xanh. Tuy nhiên, chính sách hiện nay còn phân tán, thiếu liên thông và chưa đồng bộ giữa các ngành; ưu đãi thuế, phúc lợi, hỗ trợ gia đình và kết nối mạng lưới chuyên gia quốc tế còn hạn chế. Trên thực tế, Việt Nam thiếu chiến lược tổng thể về quản trị di chuyển nhân tài quốc tế, nên hiệu quả thu hút thấp, chưa gắn kết giữa thị thực - đào tạo - sử dụng - đãi ngộ - môi trường làm việc,... như một hệ sinh thái phát triển. Vì vậy, để thị thực nhân tài thành đòn bẩy chiến lược trong cạnh tranh nhân tài quốc tế, Việt Nam cần hiện thực hóa việc tích hợp “chính sách thị thực nhân tài” vào hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, trở thành đòn bẩy chiến lược cho cạnh tranh thu hút nhân tài quốc tế, thúc đẩy hội nhập bền vững.
Học sinh trải nghiệm công nghệ Robotics, lắp đặt các bộ kit, lập trình các hoạt động của robot trên máy tính, tìm hiểu công nghệ AI _Ảnh: TTXVN
Đề xuất thiết kế chính sách
Để chính sách thị thực nhân tài trở thành đòn bẩy chiến lược trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Việt Nam cần tiếp cận tổng thể, coi đây là cấu phần của chính sách phát triển tri thức, định hình hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia.
Thứ nhất, xây dựng cơ chế “Talent Visa Việt Nam” có tính pháp lý dài hạn và liên thông quốc tế.
Việt Nam cần ban hành Talent Visa như một chương trình quốc gia với khung pháp lý riêng, thời hạn 5 năm - 10 năm, cơ chế gia hạn linh hoạt và quyền định cư có điều kiện. Chính sách này phải tích hợp giữa di trú - lao động - khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, tham chiếu tiêu chuẩn các nước tiên tiến(13).
Talent Visa nên ưu tiên 10 lĩnh vực chiến lược: trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo, chuyển đổi xanh, vật liệu tiên tiến, công nghệ lượng tử, y tế chất lượng cao, giáo dục đại học, nhà sáng tạo - nghệ sĩ tài năng, vận động viên tài năng - các trụ cột của mô hình tăng trưởng mới. Cần ban hành bộ tiêu chí định lượng minh bạch về năng lực và đóng góp khoa học - công nghệ, tương tự Tech.Pass của Xin-ga-po hay Global Talent Independent Program của Ô-xtrây-li-a, bảo đảm tính cạnh tranh và đánh giá hiệu quả định kỳ.
Thứ hai, tích hợp ưu đãi tài chính, thuế và phúc lợi xã hội.
Chính sách thị thực nhân tài hiện đại phải gắn với đãi ngộ tài chính và an sinh xã hội. Việt Nam cần kết hợp ưu đãi thuế thu nhập cá nhân, hỗ trợ nghiên cứu - khởi nghiệp cùng chính sách thị thực gia đình bảo đảm quyền học tập và y tế công bằng.
Kinh nghiệm Ô-xtrây-li-a cho thấy, gói ưu đãi toàn diện bao gồm miễn giảm thuế, hỗ trợ học phí cho con và bảo hiểm y tế quốc gia là yếu tố quyết định giúp nước này trở thành “điểm hẹn nhân tài khu vực châu Á - Thái Bình Dương”. Việt Nam cần vận dụng kinh nghiệm này để thu hút nhân tài quốc tế và trí thức Việt kiều gắn bó lâu dài với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong nước.
Thứ ba, gắn chính sách thị thực nhân tài với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia.
Talent Visa chỉ hiệu quả khi gắn với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Nhà nước cần liên kết chính sách này với các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, khu công nghệ cao, đại học nghiên cứu trọng điểm, tạo thành “hệ sinh thái đón nhận và sử dụng nhân tài”. Đồng thời, cần kết nối với mạng lưới nhân tài Việt Nam toàn cầu, hình thành chu trình lưu chuyển tri thức xuyên biên giới, giúp Việt Nam vừa tiếp nhận, vừa lan tỏa tri thức trong cộng đồng khoa học, công nghệ quốc tế. Mô hình này cho phép hội tụ trí tuệ Việt Nam toàn cầu, kết hợp giữa nội lực và ngoại lực trong chu trình khép kín: thu hút - hợp tác - phát triển - chuyển giao.
Thứ tư, định vị thương hiệu quốc gia nhân tài và truyền thông chiến lược.
Chính sách nhân tài cần đi đôi với chiến lược thương hiệu “cửa ngõ nhân tài”. Việt Nam nên triển khai Chương trình Hội tụ nhân tài Việt Nam (Vietnam Talent Hub), quảng bá hình ảnh đất nước như cửa ngõ nhân tài của ASEAN, gắn với chuỗi giá trị đổi mới sáng tạo toàn cầu.
Truyền thông chính sách phải nhấn mạnh giá trị mở, đổi mới sáng tạo, bền vững, đồng thời đồng bộ thông tin giữa các bộ, ngành (Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế, Bộ Nội vụ...). Đây không chỉ là chiến lược kinh tế, mà còn là công cụ sức mạnh mềm, khẳng định Việt Nam là quốc gia an toàn, đổi mới sáng tạo và hội nhập.
Thứ năm, thử nghiệm chính sách có kiểm soát (sandbox) cho Talent Visa trong lĩnh vực công nghệ mới.
Việt Nam nên áp dụng thử nghiệm chính sách có kiểm soát (sandbox) cho Talent Visa trong các lĩnh vực, như trí tuệ nhân tạo (AI), fintech, y sinh và công nghệ xanh, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí, bảo đảm sẵn sàng đón đầu thương mại hóa thành tựu công nghệ mới và ý tưởng đổi mới sáng tạo gắn với quản trị hiệu quả rủi ro. Cách tiếp cận này giúp Việt Nam học hỏi mô hình quốc tế, giảm rủi ro pháp lý và dần hoàn thiện thể chế. Nếu được vận hành tốt, Sandbox Talent Visa có thể trở thành mô hình tiên phong khu vực, tương tự Xin-ga-po trong quản trị thử nghiệm chính sách công nghệ có kiểm soát.
Chính sách thị thực nhân tài đang trở thành đòn bẩy chiến lược cho cạnh tranh nhân tài trong kỷ nguyên đổi mới sáng tạo toàn cầu. Trong khi nhiều nước đã hình thành chương trình Talent Visa toàn diện, Việt Nam vẫn đang ở những bước đi ban đầu.
Việc triển khai Talent Visa Việt Nam sẽ giúp thu hút, giữ chân và phát huy nhân tài quốc tế để bù đắp sự thiếu hụt nhân lực trình độ cao trong nước, thúc đẩy lưu chuyển tri thức và kích hoạt hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia hội nhập quốc tế. Nếu được thiết kế đúng và đặt trong sự kết hợp hài hòa, đồng bộ với chính sách khác, gắn kết chặt chẽ với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia thì đây sẽ là cửa ngõ thu hút nhân tài toàn cầu và góp phần thúc đẩy hội nhập sâu rộng vào hệ sinh thái đổi mới sáng tạo khu vực, khẳng định vị thế của một quốc gia kiến tạo tri thức và hội nhập chủ động khi bước vào kỷ nguyên phát triển mới./.
-----------
(1) Thị thực nhân tài (talent visa) là chính sách được triển khai ở nhiều quốc gia, nhằm thu hút chuyên gia, nhà khoa học, nhà sáng tạo và doanh nhân công nghệ, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển, thu hút mạng lưới và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo
(2) World Bank: World Development Report: The Changing Nature of Work (Báo cáo Phát triển thế giới: Bản chất thay đổi của công việc), 2019, tr. 103 - 107
(3) Xem: IMF: World Economic Outlook, (Tạm dịch: Viễn cảnh kinh tế thế giới), 2021, tr. 75 – 78
(4) EDB (Ủy ban Phát triển kinh tế Xin-ga-po): Tech.Pass Policy Framework (Khung chính sách Tech.Pass), 2021, tr. 5 - 6
(5) OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế): International Migration Outlook (Viễn cảnh di cư quốc tế), Paris: OECD Publishing, 2020, tr. 41 - 43
(6) OECD: Science, Technology and Innovation Outlook (Viễn cảnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo), Paris: OECD Publishing, 2023, tr. 20
(7) UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc): ReShaping Policies for Creativity (Định hình lại chính sách sáng tạo), Paris: UNESCO Publishing, 2022, tr. 12 - 13
(8) UNESCO: Re/Shaping Policies for Creativity (Định hình lại chính sách sáng tạo), Paris: UNESCO Publishing, 2022, tr. 15
(9) World Bank (Ngân hàng thế giới): Higher Education Sector Review (Đánh giá giáo dục đại học), 2022, tr. 11
(10) OECD: Education Policy Outlook (Viễn cảnh chính sách giáo dục), 2023, tr. 22 - 23
(11) IMF: World Economic Outlook (Viễn cảnh kinh tế thế giới), Washington D.C.: International Monetary Fund, 2021, tr. 16
(12) WEF (Diễn đàn Kinh tế thế giới): Future of Jobs Report (Báo cáo tương lai việc làm), 2023, tr. 33 - 35
(13) Xem: OECD: International Migration Outlook (Viễn cảnh di cư quốc tế), Paris: OECD Publishing OECD, 2020, tr. 41 - 43