Quy hoạch kinh tế - xã hội tỉnh, thành phố trong mối liên kết cộng hưởng lợi thế vùng nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế, nguồn lực của từng địa phương từ góc độ vùng Thủ đô và vùng đồng bằng sông Hồng
TCCS - Công tác quy hoạch có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, của các vùng kinh tế, cũng như của từng địa phương. Quy hoạch không chỉ thể hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến lược về thời gian, không gian lãnh thổ, đưa ra luận cứ và giải pháp để hướng tới mục tiêu phát triển một cách hiệu quả, bền vững, mà còn là công cụ quản lý, cơ sở để các cấp, các ngành và các địa phương trong chỉ đạo, điều hành, xây dựng cơ chế, chính sách, chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Ở Việt Nam, công tác quy hoạch các tỉnh, thành phố được triển khai thực hiện từ khá sớm, đạt được nhiều kết quả tích cực, có đóng góp quan trọng trong các thời kỳ, giai đoạn phát triển của đất nước. Từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị đầu tiên về công tác xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vào năm 1998(1) cho đến trước thời điểm Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành, đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về công tác quy hoạch được ban hành, nhưng còn thiếu tính đồng bộ. Điều này dẫn tới tình trạng quy hoạch được lập quá nhiều, nhưng không hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực. Trong giai đoạn 2001 - 2010, cả nước có 3.114 quy hoạch, nhưng đến giai đoạn 2011 - 2020 tăng lên 19.285 quy hoạch các loại, gấp 6 lần thời kỳ trước. Các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, quy hoạch xây dựng vùng Thủ đô Hà Nội, quy hoạch sản phẩm chủ yếu và nhiều quy hoạch chuyên ngành quan trọng khác được lập trong thời kỳ này bộc lộ nhiều điểm yếu, tạo ra các điểm nghẽn; gây ra sự xung đột trong việc bố trí, phân bổ nguồn lực và thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước. Chính vì vậy, Luật Quy hoạch được ban hành là đòi hỏi khách quan, cấp bách và thực sự cần thiết. Mặc dù, trong quá trình tổ chức thực hiện còn có những nội dung cần tiếp tục được hoàn thiện, nhưng Luật đã tạo ra bước đột phá về thể chế trong công tác quy hoạch, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước, cũng như của các vùng, địa phương.
Quy hoạch kinh tế - xã hội tỉnh, thành phố trong mối liên kết cộng hưởng lợi thế vùng - Xem xét từ góc độ vùng Thủ đô và vùng đồng bằng sông Hồng
Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì hệ thống quy hoạch quốc gia bao gồm 5 loại quy hoạch: 1- Quy hoạch cấp quốc gia, trong đó có quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia; 2- Quy hoạch vùng; 3- Quy hoạch tỉnh; 4- Quy hoạch đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; 5- Quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn. Đối với quy hoạch kinh tế - xã hội tỉnh, thành phố và quy hoạch xây dựng vùng Thủ đô Hà Nội được phê duyệt từ trước chỉ được tiếp tục thực hiện cho đến hết thời kỳ quy hoạch; trường hợp nội dung không phù hợp thì phải được điều chỉnh theo quy định của Luật Quy hoạch; các quy hoạch được tích hợp vào quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh được thực hiện cho đến khi quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh được phê duyệt. Theo Nghị quyết số 81/2023/QH15, ngày 9-1-2023, của Quốc hội, “Về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050” thì việc tổ chức không gian phát triển của đất nước được chia làm 6 vùng kinh tế - xã hội, bao gồm các vùng: Trung du và miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, quy hoạch xây dựng vùng Thủ đô Hà Nội được thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng, đô thị và pháp luật có liên quan; và quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của các tỉnh, thành phố trong mối liên kết cộng hưởng lợi thế vùng được làm rõ qua các nội dung sau:
Một là, hiện nay các quy hoạch đang được tiến hành lập đồng thời và dần hoàn thiện, nhưng bảo đảm các nguyên tắc trong quá trình lập quy hoạch, trong đó có sự bảo đảm về tính tuân thủ, tính liên tục, kế thừa, ổn định, thứ bậc trong hệ thống quy hoạch quốc gia. Quy hoạch các tỉnh, thành phố đã kế thừa, cập nhật và phát triển những định hướng, phương án tổng thể được đưa ra trong quy hoạch vùng; là cơ sở để sắp xếp, bố trí không gian, lãnh thổ và nguồn lực một cách hợp lý hơn. Các quy hoạch có tính thứ bậc, trong đó quy hoạch tổng thể quốc gia là cơ sở để lập quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch vùng; quy hoạch vùng là cơ sở để lập, điều chỉnh quy hoạch tỉnh và quy hoạch đô thị, nông thôn; quy hoạch cấp dưới phải phù hợp quy hoạch cấp trên, là cơ sở để hoàn thiện, bổ sung, cập nhật và xây dựng các phương án trong quy hoạch cấp trên. Trong trường hợp quy hoạch cấp dưới được lập trước quy hoạch cấp trên thì quy hoạch cấp trên phải kế thừa những nội dung phù hợp của quy hoạch cấp dưới. Sau khi quy hoạch cấp trên được phê duyệt, quy hoạch cấp dưới phải được rà soát và điều chỉnh cho phù hợp với quy hoạch cấp trên. Mối quan hệ giữa các quy hoạch theo nguyên tắc luật định làm cơ sở để tiềm năng, lợi thế, nguồn lực của địa phương được sử dụng hiệu quả; mâu thuẫn, xung đột trong quá trình lập và tổ chức thực hiện được xem xét, giải quyết và sử dụng, phân bổ hợp lý hơn theo mục tiêu, phương án quy hoạch đã được đề ra.
Hai là, vùng Thủ đô là vùng phát triển kinh tế tổng hợp, là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước; là vùng có môi trường sống và cảnh quan phong phú, mang đậm bản sắc dân tộc với xu hướng phát triển hiện đại. Chính từ vị trí và tính chất đặc biệt quan trọng này mà mỗi tỉnh, thành phố trong vùng Thủ đô đều có vai trò, vị thế và sự đóng góp của mình, tạo nên bức tranh tổng thể chung của cả vùng. Từng tỉnh, thành phố đều mong muốn huy động, sử dụng hiệu quả nguồn lực hiện có, phát huy lợi thế của từng địa phương và của cả vùng trong tiến trình phát triển. Sự phát triển của mỗi địa phương trong vùng tạo nên sự phát triển chung của cả vùng và ngược lại sự phát triển của vùng có tác động cộng hưởng trở lại, thúc đẩy, tạo sự gắn kết phát triển giữa các địa phương trong vùng.
Ba là, giữa các địa phương trong vùng Thủ đô có mối quan hệ ràng buộc, vừa độc lập vừa gắn kết chặt chẽ với nhau trong khuôn khổ luật pháp, trong đó đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Thủ đô và pháp luật có liên quan. Sự liên kết, hợp tác giữa các tỉnh, thành phố trong vùng Thủ đô ngày càng trở nên chặt chẽ, tuân thủ nguyên tắc đồng thuận, bình đẳng, công khai, minh bạch, phù hợp với quy định của pháp luật. Những vấn đề chưa đạt được sự đồng thuận hoặc vượt thẩm quyền được tổng hợp thông qua Hội đồng điều phối vùng để báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Do vậy, phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong việc phát huy tiềm năng, lợi thế và nguồn lực của mình trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển chung của cả vùng; các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của vùng được triển khai thực hiện đồng bộ trên phạm vi lãnh thổ của từng địa phương, tạo nên tác động lan tỏa trong quá trình phát triển, đạt được tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, mục tiêu và định hướng phát triển chung của vùng Thủ đô và các tỉnh, thành phố trong vùng là hướng tới xây dựng hệ thống mạng lưới hạ tầng đồng bộ, hiện đại, bao gồm cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội; phát triển các đô thị hạt nhân trở thành động lực thúc đẩy phát triển cho các khu vực xung quanh về kinh tế, văn hóa - xã hội; phát triển hài hòa, cân bằng giữa đô thị và nông thôn. Đây là vùng tập trung hệ thống giao thông và hạ tầng kỹ thuật quốc gia; có các tuyến đường vành đai, cao tốc liên tỉnh; gắn với các khu chức năng và có vị trí trọng yếu về quốc phòng, an ninh. Các địa phương trong vùng đều có lợi thế và tiềm năng lớn trong phát triển so với nhiều địa phương khác trong cả nước; đòi hỏi các địa phương quyết tâm, nỗ lực trong việc huy động các nguồn lực để hình thành và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo sự kết nối thông suốt. Chính vì vậy, quy hoạch chính là “chìa khóa” và là công cụ quan trọng để giải quyết bài toán tổng thể, kết nối liên vùng và nội vùng. Quy hoạch không chỉ đưa ra các định hướng phát triển có tính dài hạn, với các phương án tối ưu, hiệu quả dựa trên các nguồn lực có thể huy động, mà điều quan trọng là gắn với các giải pháp để tổ chức thực hiện. Từng địa phương trong vùng đều có sự phân công, phối hợp, chia sẻ, liên kết và cần có sự hợp tác, phối hợp chặt chẽ với nhau để việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn.
Năm là, quy hoạch tỉnh, thành phố trở thành công cụ quản lý quan trọng, cụ thể hóa chủ trương, định hướng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển trong vùng. Việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện các quy hoạch góp phần quan trọng trong việc thay đổi phương thức quản lý hiện nay theo hướng phát huy sự tham gia, đóng góp tích cực của các chủ thể trong nền kinh tế, trong đó Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, nhân dân vừa là chủ thể, vừa là đối tượng thụ hưởng. Do đó, quy hoạch đóng vai trò định hướng, quy hoạch theo ngành, lĩnh vực và theo không gian, lãnh thổ một cách hợp lý để kiến tạo sự phát triển trên cơ sở tôn trọng quy luật của kinh tế thị trường; việc phân bổ nguồn lực cũng theo cơ chế thị trường. Qua đó, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy việc huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, giảm bớt gánh nặng đầu tư công của khu vực nhà nước.
Sáu là, ngoài chính sách chung áp dụng cho vùng Thủ đô, trong phạm vi, chức năng và thẩm quyền của mình, các địa phương được ban hành và quy định cụ thể cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện đặc thù của từng địa phương, nhưng không trái với quy định hiện hành và chính sách chung của vùng. Khi có sự thay đổi cơ chế, chính sách, các địa phương có trách nhiệm báo cáo Hội đồng điều phối vùng Thủ đô và thông báo tới các địa phương khác trong vùng biết để phối hợp thực hiện. Do đó, sẽ phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các địa phương, phù hợp với tình hình thực tiễn, nhu cầu của sự phát triển, nhưng vẫn bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển chung của cả vùng.
Bảy là, các tỉnh, thành phố được hưởng cơ chế, chính sách ưu đãi và hỗ trợ, huy động vốn đầu tư, áp dụng cho vùng Thủ đô. Có sự hỗ trợ từ ngân sách Trung ương cho ngân sách địa phương; được áp dụng các cơ chế tài chính hỗ trợ phát triển khu công nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực điện, điện tử, công nghệ thông tin; khu công nghệ cao, sản phẩm công nghệ cao; kết cấu hạ tầng trong khu du lịch quốc gia; phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nghiên cứu khoa học - công nghệ trực tiếp sản xuất; hỗ trợ đào tạo nghề. Ngoài các lợi thế nêu trên, các địa phương còn có sự hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách Trung ương để thực hiện công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư; được ưu tiên nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài để thực hiện các công trình, dự án trọng điểm của vùng. Được áp dụng chính sách miễn tiền thuê đất cho toàn bộ thời gian của dự án đối với các công trình, dự án trọng điểm của vùng thuộc lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo, quản lý và bảo vệ môi trường,....
Tám là, các tỉnh, thành phố trong vùng Thủ đô có sự phối hợp và cơ chế ràng buộc, kiểm soát, hỗ trợ lẫn nhau từ khâu lập cho đến khâu tổ chức thực hiện các quy hoạch. Các tỉnh, thành phố đều có trách nhiệm gửi lấy ý kiến và tham gia ý kiến vào các phương án trong quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, thành phố; tổ chức công bố công khai sau khi quy hoạch được phê duyệt, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện; triển khai các hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư trong nước, nước ngoài và thu hút các thành phần kinh tế tham gia; có sự kiểm tra, giám sát trong quá trình tổ chức thực hiện. Do đó, luôn bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất giữa các loại quy hoạch và được điều chỉnh phù hợp trong quá trình tổ chức thực hiện.
Chín là, một số tỉnh, thành phố có được các lợi thế cộng hưởng do vừa thuộc vùng Thủ đô Hà Nội, vừa thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Mặc dù hiện nay, quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng còn đang trong quá trình xây dựng và lấy ý kiến rộng rãi, nhưng Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 23-11-2022, “về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Quốc hội, Chính phủ và các tỉnh, thành phố trong vùng đều ban hành chương trình, kế hoạch, chỉ thị để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội để phát triển nhanh, bền vững vùng đồng bằng sông Hồng thực sự là vùng động lực phát triển hàng đầu, có vai trò định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước.
Quy hoạch kinh tế - xã hội tỉnh, thành phố trong mối liên kết cộng hưởng lợi thế vùng - Xem xét từ góc độ tỉnh Hải Dương
Tỉnh Hải Dương có những lợi thế quan trọng, nằm trong mối quan hệ liên kết, vừa thuộc vùng Thủ đô, vừa thuộc vùng đồng bằng sông Hồng; cùng các tỉnh, thành phố khác được xác định phát triển trở thành vùng động lực phía Bắc trong không gian phát triển của cả nước theo Nghị quyết số 81/2023/QH15, ngày 9-1-2023, của Quốc hội, “về quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”. Đây sẽ là vùng động lực đi đầu trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, kinh tế số, xã hội số; phát huy vai trò trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo của quốc gia. Phát triển một số ngành dịch vụ hiện đại, chất lượng cao; các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Chính vì vậy, tỉnh Hải Dương coi trọng và tập trung cho công tác lập quy hoạch, coi đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, ưu tiên hàng đầu. Ngày 19-12-2023, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1639/QĐ-TTg, phê duyệt Quy hoạch tỉnh Hải Dương thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây là quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia, là sản phẩm chung của cả nước và của tỉnh; là kết quả của quá trình nghiên cứu, tiếp thu chọn lọc ý kiến đóng góp của các bộ, ngành Trung ương, của các tỉnh, thành phố, các chuyên gia, nhà khoa học.
Quy hoạch tỉnh Hải Dương được xây dựng trên cơ sở đánh giá một cách tổng thể, toàn diện và khách quan hiện trạng phát triển của tỉnh; làm rõ điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức; từ đó xây dựng tầm nhìn, định hướng, mục tiêu, đưa ra phương án phát triển và giải pháp để tổ chức thực hiện. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng kế hoạch, đề ra cơ chế, chính sách, giải pháp và bố trí nguồn lực, cũng như đưa ra các quyết sách quan trọng của tỉnh trong thời gian tới. Quy hoạch tỉnh được xây dựng trên nguyên tắc bảo đảm tuân thủ trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; đồng bộ, thống nhất với quy hoạch quốc gia. Nội dung của quy hoạch có sự kế thừa, tiếp nối và phát triển; có các định hướng mang tính dài hạn, có khả năng để thực hiện đối với sự phát triển của các ngành, lĩnh vực; phân bổ và sử dụng đất đai, tài nguyên, không gian một cách hợp lý, hiệu quả, gắn với bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội và quốc phòng, an ninh. Các nội dung trong quy hoạch có sự rà soát, cập nhật và điều chỉnh để phù hợp với Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng; Nghị quyết của Quốc hội về Quy hoạch tổng thể quốc gia; định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực và khả năng của tỉnh. Theo đó, tỉnh sẽ thực hiện các quan điểm, mục tiêu phát triển để tạo được sự phát triển bứt phá, thúc đẩy hội nhập, phát triển hài hòa, có sự kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, bảo đảm an sinh xã hội. Đến năm 2030, phấn đấu là tỉnh công nghiệp hiện đại, là trung tâm công nghiệp động lực của vùng đồng bằng sông Hồng, có quy mô nền kinh tế lớn trong cả nước. Tầm nhìn đến năm 2050, phấn đấu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương văn minh, hiện đại, giàu bản sắc văn hóa xứ Đông - Hải Dương.
Để thực hiện các mục tiêu nêu trên, tỉnh Hải Dương tiếp tục: 1- Tập trung thực hiện các định hướng lớn tạo đột phá phát triển, đó là: Thứ nhất, phát triển năm trụ cột chính, bao gồm công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ; dịch vụ chất lượng cao; đô thị xanh, hiện đại, thông minh; nông nghiệp hàng hóa ứng dụng công nghệ cao và nông nghiệp hữu cơ; bảo đảm an sinh xã hội; thứ hai, xây dựng ba nền tảng hỗ trợ, bao gồm văn hóa và con người xứ Đông - Hải Dương - phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đời sống và môi trường văn hóa lành mạnh; môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, minh bạch; kinh tế số, khoa học - công nghệ, hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thứ ba, hình thành bốn trục phát triển không gian, bao gồm trục phát triển Bắc - Nam; trục phát triển Đông - Tây trung tâm tỉnh; trục phát triển theo hướng Đông - Tây đi qua khu vực phía Bắc của tỉnh; trục phát triển kinh tế dọc các tuyến sông. 2- Phát triển các ngành, lĩnh vực theo các phương án được nêu trong quy hoạch, trong đó tập trung phát triển 4 trụ cột trong công nghiệp, phát triển các ngành dịch vụ trở thành động lực kinh tế quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, phát triển ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trở thành trung tâm sản xuất, chế biến nông sản của vùng đồng bằng sông Hồng, phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng kết nối vùng; phát triển không gian kinh tế theo 4 trục phát triển, 5 cực tăng trưởng và 5 phân vùng phát triển. Phát triển 28 đô thị, chú trọng phát triển kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn. Sớm hình thành 1 khu kinh tế chuyên biệt để được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư ở mức cao nhất trong khung ưu đãi, có khả năng cạnh tranh cao và hấp dẫn hơn so với các tỉnh, thành phố khác trong thu hút đầu tư; thời kỳ 2021 - 2030, hình thành 32 khu công nghiệp và 61 cụm công nghiệp. Chú trọng phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh; phát triển các vùng động lực. Thực hiện tốt các giải pháp để huy động, bảo đảm nguồn lực cho việc thực hiện quy hoạch.
Để khai thác, phát huy tiềm năng, lợi thế, nguồn lực của các địa phương trong mối liên kết vùng, cần tạo cơ chế kết nối hiệu quả, tạo sự gắn kết, phát huy được lợi thế cộng hưởng trong việc thực hiện, xét trong bối cảnh vùng Thủ đô và vùng đồng bằng sông Hồng, tỉnh Hải Dương đề xuất một số nội dung sau:
Một là, đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ phối hợp, hợp tác, liên kết giữa các tỉnh, thành phố để cùng phát triển. Bám sát vào các nguyên tắc và các lĩnh vực trọng tâm phối hợp theo Nghị định số 91/2021/NĐ-CP, ngày 21-10-2021, của Chính phủ, về “quy định về cơ chế phối hợp giữa các tỉnh, thành phố trong vùng Thủ đô để thi hành các quy định của pháp luật về Thủ đô”. Tổ chức triển khai đồng bộ, kịp thời các nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy phát triển vùng đồng bằng sông Hồng theo Nghị quyết số 30-NQ/TW, của Bộ Chính trị và các chương trình, kế hoạch hành động của Chính phủ và các địa phương. Các địa phương cần tăng cường hợp tác, trao đổi; cùng nhau nghiên cứu xây dựng các kế hoạch, chương trình, dự án hợp tác phát triển để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt trên cơ sở phát huy tốt lợi thế của từng tỉnh, thành phố; hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển trên cơ sở bình đẳng, công khai, minh bạch và phù hợp với quy định của pháp luật.
Hai là, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phố biến pháp luật về quy hoạch và các văn bản pháp luật về hợp tác, liên kết phát triển vùng, qua đó nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm và sự đồng thuận của xã hội, để các thành phần kinh tế thấy được việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch là quyền lợi và trách nhiệm của chính mình. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch. Duy trì và thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo, chia sẻ thông tin và hình thành cơ sở dữ liệu về kết quả thực hiện quy hoạch của các địa phương trong vùng. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế, nhưng phải bảo đảm nguyên tắc lấy mục tiêu chung của cả nước, của ngành và của vùng làm cơ sở cho việc điều chỉnh quy hoạch của các địa phương và bảo đảm tính đồng bộ về thứ bậc của các quy hoạch trong hệ thống quy hoạch quốc gia.
Ba là, tăng cường công tác trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong việc huy động nguồn lực, triển khai và tổ chức thực hiện quy hoạch; phối hợp chặt chẽ trong các hoạt động xúc tiến, kêu gọi đầu tư. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư trọng điểm của vùng trên địa bàn các tỉnh, thành phố. Chú trọng hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng của từng địa phương, nhất là hạ tầng có tính liên kết phát triển vùng, như xử lý nước thải, chất thải rắn, chất thải nguy hại; kiểm soát chất lượng môi trường không khí; khí tượng thủy văn; xây dựng hệ thống đường giao thông liên kết vùng, đường cao tốc; hạ tầng thông tin và truyền thông; phát triển các khu, cụm công nghiệp và khu kinh tế; hoàn thiện hạ tầng trong các khu và các điểm du lịch. Tập trung nguồn lực hoàn thành tuyến đường vành đai, các tuyến đường bộ, đường sắt, đường thủy đi qua địa bàn của các tỉnh, thành phố, tạo sự lan tỏa, cộng hưởng trong liên kết, thúc đẩy và hợp tác toàn diện trên các lĩnh vực.
Bốn là, tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác trong lĩnh vực mà tỉnh Hải Dương đang có lợi thế do đã được xác định trong định hướng phát triển của vùng, đó là y tế và giáo dục. Tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp; đào tạo nguồn nhân lực cho các địa phương trong vùng. Phát triển hệ thống các trung tâm y tế, trung tâm văn hóa, thể thao. Rà soát, đề xuất các công trình, dự án thuộc lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo, quản lý và bảo vệ môi trường được đầu tư từ nguồn vốn xã hội hóa nằm trên địa bàn của ít nhất hai tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng, nhưng có tác động đến các tỉnh, thành phố khác trong vùng Thủ đô để được hưởng chính sách ưu đãi về tiền thuê đất.
Năm là, trong bối cảnh tình hình thế giới có sự biến động, tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo có thể ở mức thấp hơn vào năm sau, các tỉnh, thành phố trong vùng cần đẩy mạnh hợp tác trong tiêu thụ sản phẩm, tăng tổng cầu để thúc đẩy sản xuất phát triển. Phát huy vai trò trung tâm, lan tỏa của Thủ đô Hà Nội và có giải pháp khuyến khích tiêu thụ sản phẩm của các tỉnh, thành phố trong vùng đồng bằng sông Hồng và tỉnh Hải Dương. Đồng thời, đề nghị các tỉnh, thành phố trong vùng rà soát, có biện pháp khuyến khích tiêu thụ sản phẩm của các địa phương khác trong vùng, qua đó thúc đẩy sản xuất để tăng quy mô sản lượng, khuyến khích phát triển và ký kết các hợp đồng bao tiêu sản phẩm nông nghiệp có thế mạnh của từng tỉnh, thành phố, hợp tác liên kết trong phát triển công nghiệp. Tăng cường phối hợp, giao thương hàng hóa giữa doanh nghiệp của các địa phương, hình thành chuỗi liên kết, khai thác hiệu quả tuyến vận tải hàng hóa trên các tuyến quốc lộ, tuyến vận tải bằng đường sắt, đường thủy; hình thành các trung tâm, cảng trung chuyển logistics nhằm giảm chi phí trung gian, nâng cao giá trị gia tăng của các ngành, lĩnh vực nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hỗ trợ, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân có trụ sở thường trú trên địa bàn mỗi tỉnh, thành phố trong vùng thực hiện các hoạt động đầu tư, hợp tác sản xuất, kinh doanh trên địa bàn các tỉnh, thành phố khác trong vùng. Có biện pháp can thiệp, hỗ trợ cần thiết của Nhà nước theo cơ chế thị trường để điều tiết quan hệ cung - cầu sản phẩm của các địa phương. Trong dài hạn, cần đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác đầu tư, đưa nhanh các dự án liên kết vùng sớm đi vào hoạt động.
Sáu là, cần sớm hoàn thiện để phê duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng và các quy hoạch tỉnh, thành phố trong vùng Thủ đô. Các quy hoạch cần có sự đồng bộ, thống nhất, khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo gây lãng phí nguồn lực, không phù hợp trong thực hiện các mục tiêu giữa các quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia; hạn chế phát sinh các quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành không cần thiết, có thể gây ra sự lãng phí nguồn lực hoặc làm phát sinh xung đột trong quá trình bố trí, sắp xếp các nguồn lực thực hiện. Cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý để bảo đảm sự đồng bộ, gắn kết giữa công tác quy hoạch với công tác kế hoạch; giữa việc bố trí, thu hút, sử dụng nguồn lực đầu tư để thực hiện mục tiêu quy hoạch.
Bảy là, đổi mới, sắp xếp mô hình tổ chức bộ máy quản lý nhà nước gắn với nâng cao chất lượng công tác quản lý quy hoạch. Tăng cường công tác đào tạo, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý quy hoạch của các địa phương cho phù hợp với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Tám là, đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng điều phối phát triển vùng. Rà soát và kiện toàn tổ chức bộ máy, quy chế hoạt động của tổ điều phối và bộ máy giúp việc cho tổ điều phối phát triển vùng của các địa phương. Tăng cường công tác trao đổi, phối kết hợp giữa các tỉnh, thành phố và giữa các tỉnh, thành phố với các bộ, ngành Trung ương. Đẩy mạnh các hoạt động để giải quyết các vấn đề mang tính liên vùng mà nhiều tỉnh, thành phố cùng quan tâm. Tăng cường công tác học tập, trao đổi kinh nghiệm trong và ngoài nước về công tác quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch; đẩy mạnh hợp tác, liên kết phát triển./.
----------------------------
(1) Chỉ thị số 32/1998/CT-TTg, ngày 23-9-1998, của Thủ tướng Chính phủ, “Về công tác xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010”Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị lần thứ 3 Hội đồng điều phối vùng đồng bằng sông Hồng  (10/05/2024)
Tỉnh Bắc Giang khắc phục “điểm nghẽn”, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững  (26/03/2024)
Những thành tựu nổi bật của Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận qua nửa nhiệm kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020 - 2025  (08/03/2024)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam