Bảo đảm Quỹ Bảo hiểm xã hội cân đối trong dài hạn, Quỹ Bảo hiểm y tế cân đối hằng năm, gắn với quản lý và sử dụng hiệu quả, trách nhiệm, đúng quy định

NGUYỄN THẾ MẠNH
Bí thư Ban Cán sự đảng, Bí thư Đảng ủy, Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam
15:40, ngày 18-10-2022

TCCS - Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là một trong những chính sách an sinh xã hội quan trọng của Đảng và Nhà nước, trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội quốc gia nhằm bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, ổn định cuộc sống nhân dân, thể hiện tính nhân văn của chế độ ta. Việc quản lý, sử dụng Quỹ bảo hiểm xã hội, Quỹ bảo hiểm y tế đúng pháp luật, đúng mục đích, công khai, minh bạch, tiết kiệm, hiệu quả góp phần xây dựng niềm tin của nhân dân và cộng đồng xã hội vào Đảng, Nhà nước.

1- Quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác quản lý, sử dụng Quỹ Bảo hiểm xã hội, Quỹ Bảo hiểm y tế

Thành lập từ năm 1995, ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam được Đảng, Nhà nước và Chính phủ giao trọng trách tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Là ngành trực tiếp thực thi các nhiệm vụ quan trọng về an sinh xã hội (ASXH) của Đảng, Nhà nước, công tác quản lý, sử dụng Quỹ BHXH, Quỹ BHYT luôn được ngành BHXH Việt Nam thực hiện đúng quy định và có hiệu quả nhằm bảo đảm Quỹ BHXH cân đối trong dài hạn, Quỹ BHYT cân đối hằng năm. Khoản 4, Điều 3, Nghị định số 89/2020/NĐ-CP, ngày 14-8-2020, của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam quy định rõ: “Quản lý và sử dụng các quỹ BHXH, bao gồm: quỹ hưu trí và tử tuất, Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Quỹ ốm đau và thai sản; Quỹ BHTN; Quỹ BHYT theo nguyên tắc tập trung thống nhất, công khai, minh bạch, đúng mục đích theo quy định của pháp luật; tổ chức hạch toán các Quỹ BHXH, BHTN, BHYT theo quy định của pháp luật; hằng năm, xây dựng và tổ chức thực hiện phương án đầu tư Quỹ BHXH, BHTN, BHYT sau khi được Hội đồng quản lý BHXH phê duyệt; thực hiện quản lý rủi ro đầu tư Quỹ BHXH, BHTN, BHYT theo quy định của pháp luật”.

Các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung và Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Đỗ Trọng Hưng thăm hỏi người lao động của Nhà máy sản xuất bao bì Đại Dương (Khu kinh tế Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa)_Ảnh: TTXVN

Để bảo đảm nguồn lực cho việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, đời sống của nhân dân, phát triển bền vững đất nước, pháp luật hiện hành về BHXH, BHYT quy định rõ việc quản lý và sử dụng các Quỹ BHXH, Quỹ BHYT phải đúng quy định, đúng mục đích, an toàn, hiệu quả. Ngày 22-11-2012, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020”, trong đó nêu rõ: “Sử dụng an toàn và bảo đảm cân đối quỹ BHXH trong dài hạn; quản lý sử dụng có hiệu quả và bảo đảm cân đối quỹ BHYT”. Nghị quyết cũng đưa ra 4 nhóm nhiệm vụ và giải pháp để thực hiện các mục tiêu phát triển BHXH, BHYT, theo đó, nội dung “củng cố và tăng cường quản lý quỹ BHXH, quỹ BHYT bảo đảm thu chi, đầu tư tăng trưởng quỹ hiệu quả và an toàn theo quy định của pháp luật” là một trong những giải pháp cụ thể thuộc nhóm nhiệm vụ thứ tư: “Tăng cường quản lý nhà nước về BHXH, BHYT”.

Đối với Quỹ BHXH: Các quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch; được sử dụng đúng mục đích và hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần. Việc sử dụng quỹ được quy định rõ tại Điều 84, Luật Bảo hiểm xã hội và khoản 3, Điều 57, Luật Việc làm. Cụ thể, Quỹ BHXH được sử dụng để trả các chế độ BHXH cho người lao động; đóng BHYT cho người hưởng các chế độ BHXH theo quy định; chi phí quản lý BHXH theo quy định; trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với người lao động được hưởng chế độ BHXH theo quy định; đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định.

Đối với Quỹ BHYT: Điều 34, Điều 35, Luật Bảo hiểm y tế quy định: Quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch và có sự phân cấp quản lý trong hệ thống tổ chức BHYT. Quỹ BHYT được sử dụng cho các mục đích thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT; chi phí quản lý bộ máy tổ chức BHYT theo định mức chi hành chính của cơ quan nhà nước; đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng Quỹ BHYT theo nguyên tắc an toàn, hiệu quả; lập quỹ dự phòng khám bệnh, chữa bệnh BHYT.

Một nội dung quan trọng trong công tác quản lý, sử dụng Quỹ BHXH, Quỹ BHYT là đầu tư quỹ. Vì vậy, nguyên tắc và hình thức đầu tư Quỹ BHXH, BHYT được pháp luật quy định rất cụ thể và hoạt động đầu tư được đặt dưới sự giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước về BHXH, Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Chính phủ và Quốc hội nhằm bảo đảm sự chặt chẽ, minh bạch. Cụ thể, ngày 28-4-2016, Chính phủ ban hành Nghị định số 30/2016/NĐ-CP Quy định chi tiết hoạt động đầu tư từ Quỹ BHXH, BHYT, BHTN, có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động đầu tư quỹ của BHXH Việt Nam.

Ngày 23-5-2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW “Về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội”, trong đó cải cách hoạt động đầu tư quỹ: “Đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư quỹ BHXH theo nguyên tắc an toàn, bền vững, hiệu quả; ưu tiên đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, nhất là trái phiếu Chính phủ dài hạn; nghiên cứu từng bước mở rộng sang các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao, từng bước và có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của quỹ thông qua ủy thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế”.

Ngày 8-10-2018, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 125/NQ-CP kèm theo Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, trong đó nhấn mạnh một trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH là: “Quản lý chặt chẽ việc đầu tư quỹ BHXH bảo đảm an toàn, bền vững, hiệu quả”. Nghị quyết nêu rõ: “Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với BHXH Việt Nam, các bộ, ngành liên quan xây dựng, trình Chính phủ Đề án nâng cao hiệu quả quản lý, đầu tư quỹ BHXH theo hướng đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư bảo đảm nguyên tắc an toàn, bền vững và hiệu quả; ưu tiên đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, nhất là trái phiếu Chính phủ dài hạn; nghiên cứu từng bước mở rộng sang các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao, từng bước có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của quỹ thông qua ủy thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế bảo đảm an toàn, bền vững”.

Hiện nay, việc tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHTN, BHYT, quản lý và sử dụng các quỹ BHXH, BHYT của BHXH Việt Nam được đặt dưới sự giám sát, chỉ đạo chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước về BHXH, Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam, Chính phủ và Quốc hội. Bên cạnh đó, Quỹ BHXH còn được kiểm toán định kỳ 3 năm một lần (quy định tại Khoản 2, Điều 16, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014). Hằng năm, Quốc hội thực hiện việc giám sát tình hình thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHTN và quản lý, sử dụng quỹ để bảo đảm việc quản lý và sử dụng các quỹ BHXH đúng pháp luật.

2- Quản lý, sử dụng có hiệu quả, đúng quy định Quỹ Bảo hiểm xã hội, Quỹ Bảo hiểm y tế

Thứ nhất, việc quản lý, sử dụng Quỹ BHXH, Quỹ BHYT được thực hiện đúng pháp luật, sử dụng đúng mục đích.

Sau 27 năm hình thành và phát triển, Quỹ BHXH đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa những người lao động cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH. Quỹ BHYT đã khẳng định vai trò quan trọng được sử dụng để chi trả các khoản chi phí hợp pháp trong lĩnh vực BHYT, góp phần chăm sóc sức khỏe người dân. Số người được hưởng chế độ BHXH, BHYT không ngừng tăng lên qua các năm; diện bao phủ BHXH, BHYT ngày càng được mở rộng. Theo đó, đến hết ngày 31-12-2021, số người tham gia BHXH là hơn 16,547 triệu người, trong đó, số người tham gia BHXH bắt buộc là 15,097 triệu người (tăng gấp gần 6,6 lần so với năm 1995); số người tham gia BHXH tự nguyện là 1,45 triệu người (gấp 6,65 lần so với năm 2015), đạt 2,96% lực lượng lao động trong độ tuổi là nông dân và lao động khu vực phi chính thức, vượt 1,96% chỉ tiêu được giao tại Nghị quyết số 28-NQ/TW. Số người tham gia BHYT đạt 88,837 triệu người (gấp 1,27 lần so với năm 2015), đạt tỷ lệ bao phủ 91,01% dân số.

Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam Nguyễn Thế Mạnh trao thẻ bảo hiểm y tế tặng người dân khó khăn tại tỉnh Quảng Nam_Ảnh: TTXVN

Công tác giải quyết, chi trả chế độ, chính sách BHXH, BHTN, BHYT thực hiện đầy đủ, đúng quy định, phục vụ kịp thời tới từng người tham gia, thụ hưởng; thực sự phát huy vai trò là điểm tựa ASXH cho người lao động; đồng thời, đã chuyển đổi hiệu quả phương thức quản lý từ thủ công sang hiện đại, việc giải quyết chế độ BHXH, BHYT căn cứ vào dữ liệu quản lý quá trình tham gia đóng BHXH, BHYT, bảo đảm nguyên tắc “đóng - hưởng”. Phương thức hoạt động của hệ thống ngành BHXH Việt Nam được đổi mới theo hướng phục vụ, đẩy mạnh giao dịch điện tử, tăng cường sử dụng các dịch vụ công ích, rút ngắn thời gian giải quyết, giảm phiền hà, bảo đảm quyền lợi cho người lao động và nhân dân.

Đặc biệt, trong hai năm 2020, 2021, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, kéo dài, BHXH Việt Nam luôn theo sát diễn biến thực tế, thích ứng nhanh, linh hoạt với tình hình dịch bệnh để triển khai hiệu quả các giải pháp nhằm bảo đảm tốt nhất quyền lợi người tham gia. Từ năm 1995 đến hết năm 2021, BHXH Việt Nam đã giải quyết cho gần 135,7 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe (bình quân mỗi năm trên 5 triệu lượt người hưởng); từ năm 2010 đến hết năm 2021, giải quyết cho trên 8,7 triệu người hưởng các chế độ BHTN; đến cuối năm 2021, tổng số người đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng khoảng 3,3 triệu người (tăng 179% so với năm 1995); từ năm 2003 đến năm 2021 đã phối hợp với các cơ sở y tế bảo đảm quyền lợi khám, chữa bệnh BHYT cho trên 2.217 triệu lượt người. Trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị sử dụng lao động và việc làm của người lao động, sức khỏe của người dân thì các chính sách, chế độ BHXH, BHTN, BHYT đã thực sự phát huy được hiệu quả, giúp người lao động, người dân ổn định cuộc sống, vượt qua khó khăn.

Kết quả thực hiện số thu các quỹ BHXH, BHYT liên tục tăng hằng năm: Số thu BHXH tăng từ 788,5 tỷ đồng năm 1995 lên 49.914 tỷ đồng năm 2010, 148.375 tỷ đồng năm 2015 và đến năm 2021 khoảng 395.742 tỷ đồng, tăng 500 lần so với năm 1995. Số thu BHYT tăng từ 2.110 tỷ đồng năm 2004 lên 59.669 tỷ đồng năm 2015, 109.259 tỷ đồng năm 2021. Số tiền chậm đóng BHXH, BHYT phải tính lãi giảm dần qua các năm, đưa tỷ lệ nợ đọng BHXH, BHYT xuống dưới 3,67%.

Như vậy, Quỹ BHXH, BHYT đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất, được sử dụng đúng mục đích; được quản lý công khai, minh bạch dưới sự giám sát chặt chẽ của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam và các cơ quan liên quan. Kết quả thanh tra, kiểm toán hằng năm cho thấy, việc quản lý, sử dụng Quỹ BHXH, BHYT luôn bảo đảm đúng pháp luật. Từ năm 2019, ngành BHXH Việt Nam đã đưa vào triển khai phần mềm quản lý hoạt động thanh tra, kiểm tra; trong năm 2021, phần mềm tiếp tục được nâng cấp, bổ sung chức năng xử lý dữ liệu, cảnh báo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra (đã xây dựng 121 dấu hiệu nhận diện của 77 hành vi vi phạm trong thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT; 141 dấu hiệu nhận diện sai sót trong nghiệp vụ). Việc triển khai hoạt động thanh tra, kiểm tra theo hình thức điện tử đã làm tăng năng suất, hiệu quả, chất lượng công việc và giảm nhân lực, thời gian tiến hành các đoàn thanh tra, đặc biệt là rút ngắn thời gian làm việc trực tiếp với đơn vị (giảm khoảng 48% từ 20 giờ xuống còn 10,5 giờ). Cùng với đó, BHXH Việt Nam đẩy mạnh kiểm tra, giám sát chi khám, chữa bệnh BHYT trên Hệ thống thông tin giám định BHYT điện tử; qua đó, phát hiện nhanh chóng, kịp thời các trường hợp có dấu hiệu lạm dụng hoặc sử dụng Quỹ BHYT không hợp lý, góp phần giảm chi Quỹ BHYT hàng nghìn tỷ đồng qua các năm.

Thứ hai, công tác quản lý, sử dụng các Quỹ BHXH, BHYT được thực hiện công khai, minh bạch, hiệu quả.

Công tác quản lý tài chính các quỹ BHXH, BHYT được thực hiện công khai, minh bạch, tiết kiệm, hiệu quả, bảo đảm tính khách quan; gắn thực hiện nhiệm vụ thu, chi, giải quyết chính sách, quản lý quỹ và phát triển người tham gia BHXH, BHYT; bảo đảm phục vụ kịp thời cho người tham gia và thụ hưởng chính sách, phù hợp với đặc thù tổ chức quản lý, hoạt động của ngành BHXH. Quy mô các quỹ bảo hiểm tăng hằng năm, tổng số dư các quỹ BHXH, BHTN ước đến hết năm 2021 khoảng 1,075 triệu tỷ đồng (tốc độ tăng bình quân khoảng 11,9%/năm), trong đó: Quỹ BHXH khoảng 955 nghìn tỷ đồng, bảo đảm cân đối trong dài hạn; Quỹ BHTN gần 88 nghìn tỷ đồng. Các quỹ được sử dụng đúng mục đích, quản lý tập trung, thống nhất, hạch toán độc lập theo từng quỹ.

Cơ chế quản lý tài chính quỹ bảo hiểm và cơ chế tài chính ngành, chi phí quản lý BHXH, BHYT, BHTN được Quốc hội, Chính phủ ban hành; giúp cho việc quản lý minh bạch, rõ ràng, sử dụng nguồn lực hiệu quả; ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh công tác truyền thông, phát triển người tham gia, tổ chức thu, chi trả các chế độ bảo hiểm, tăng cường thanh tra, kiểm tra, đôn đốc thu hồi nợ đọng; tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện về trang thiết bị làm việc. Đặc biệt, trong bối cảnh ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, mặc dù khối lượng công việc tăng nhanh, nhưng toàn ngành chủ động rà soát, sắp xếp các nội dung chi tiết kiệm từ 10% - 15% chi phí quản lý.

Hoạt động đầu tư quỹ thực hiện đúng các quy định của pháp luật và nghị quyết của Hội đồng quản lý BHXH, bảo đảm nguyên tắc an toàn, hiệu quả. Quy mô đầu tư quỹ ngày càng lớn thể hiện qua sự tăng trưởng của quỹ, số dư đầu tư quỹ và lợi nhuận thu từ đầu tư hằng năm đều tăng về số tuyệt đối. Tỷ lệ lãi đầu tư bình quân luôn tăng trưởng dương và cao hơn so với chỉ số lạm phát. Đến hết năm 2021, số dư đầu tư lũy kế các quỹ bảo hiểm đạt 983.060 tỷ đồng, bình quân tăng khoảng 24% trong giai đoạn 1995 - 2021. Số dư lũy kế tại thời điểm 31-12-2021 tăng hơn 131 lần so với năm 1995.

Hình thức đầu tư các quỹ tập trung chủ yếu vào trái phiếu Chính phủ (chiếm trên 85% tổng số dư đầu tư), phần còn lại đầu tư vào các ngân hàng thương mại theo quy định tại Nghị định số 30/2016/NĐ-CP và Nghị quyết của Hội đồng quản lý BHXH để bảo đảm thanh khoản, sẵn sàng chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho người tham gia. Với vai trò là quỹ tài chính lớn nhất sau ngân sách nhà nước, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã đóng góp tích cực vào sự phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ tại Việt Nam, giúp Chính phủ điều hành ổn định kinh tế vĩ mô, huy động thành công nguồn vốn trong nước, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, ASXH quốc gia.

Kết quả thực hiện các chính sách lĩnh vực BHXH, BHYT trong 27 năm qua cho thấy sự đổi mới về cơ chế tài chính đối với quỹ BHXH, BHYT là một định hướng đúng đắn. Quỹ BHXH, BHYT tách độc lập khỏi ngân sách nhà nước, được quản lý theo nguyên tắc thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, bảo đảm tính khách quan, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, đúng pháp luật. Hai lần cải cách chính sách BHXH, BHYT có ý nghĩa quan trọng, là bài học kinh nghiệm thực tiễn quý báu để tiếp tục phát huy, đẩy mạnh cải cách tổng thể các chính sách xã hội trong thời gian tới. Tỷ lệ chi từ nguồn quỹ BHXH ngày càng tăng, tỷ lệ chi từ ngân sách nhà nước cho BHXH ngày càng giảm, khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng trong việc khuyến khích người dân nâng cao năng lực tự bảo đảm ASXH. Quy mô các quỹ bảo hiểm tăng qua từng năm, khẳng định tính bền vững, bảo đảm cân đối trong dài hạn. Nhờ đó, Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng quản lý, người lao động và nhân dân ngày càng yên tâm, tin tưởng vào BHXH Việt Nam trong thực thi nhiệm vụ.

3- Một số vấn đề đặt ra và giải pháp thời gian tới

Chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Ninh (ảnh: Đinh Như Thái)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình quản lý, sử dụng quỹ BHXH, quỹ BHYT hiện nay đang phải đối mặt với một số khó khăn, như:

Một là, tình trạng lạm dụng, trục lợi Quỹ BHXH, BHTN, BHYT vẫn còn xảy ra ở một số địa phương, đơn vị. Ngành BHXH Việt Nam được giao quản lý, sử dụng Quỹ BHXH, BHTN, BHYT, bao gồm cả thu, chi; trong khi đó, mới được giao chức năng thanh tra chuyên ngành đóng, còn lĩnh vực chi chưa được giao chức năng thanh tra, chỉ dừng ở kiểm tra, kiến nghị, chế tài xử lý không đủ sức răn đe, dẫn đến việc các đơn vị thiếu hợp tác, không chấp hành nên tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ ngày càng tinh vi, phức tạp.

Hai là, công tác quản lý quỹ khám, chữa bệnh BHYT còn gặp nhiều khó khăn do cơ chế, chính sách, như cơ chế tự chủ tài chính bệnh viện; giá dịch vụ; phạm vi hưởng BHYT; quy định về xã hội hóa, hợp tác công - tư chưa đầy đủ, thiếu chế tài giám sát; chưa có quy chuẩn để đánh giá tính hợp lý của việc chỉ định sử dụng thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật trong khám, chữa bệnh BHYT...

Từ thực tế đó, BHXH Việt Nam xác định, cần tiếp tục tăng cường công tác quản lý, sử dụng đúng quy định và có hiệu quả Quỹ BHXH, Quỹ BHYT, bảo đảm quyền lợi cho người tham gia. Theo đó, thời gian tới tập trung vào những vấn đề trọng tâm sau:

Thứ nhất, tiếp tục quản lý chặt chẽ việc chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn, trợ cấp một lần, chi trả trợ cấp BHTN; tăng cường, chủ động kiểm soát chi phí khám, chữa bệnh BHYT; khai thác, phát huy tối đa hiệu quả công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu của ngành để kiểm tra, giám sát, phòng ngừa gian lận, lạm dụng, trục lợi quỹ. Cùng với đó, thực hiện đồng bộ các biện pháp để quản lý quỹ an toàn, tăng trưởng bền vững, hiệu quả; vừa kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả, tối ưu Quỹ BHXH, BHTN, BHYT, vừa bảo đảm quyền lợi người tham gia và đóng góp vào ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Thứ hai, tiếp tục phối hợp với Bộ Y tế triển khai đồng bộ các giải pháp để vừa kiểm soát hiệu quả Quỹ BHYT, bảo đảm chi đúng, chi đủ, vừa bảo đảm quyền lợi của người tham gia, như: Xây dựng, triển khai các phương thức thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT mới (theo định suất và theo nhóm chẩn đoán - DRG). Thông báo số dự kiến phân bổ nguồn kinh phí chi khám, chữa bệnh BHYT đến từng cơ quan BHXH, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố và bộ, ngành liên quan để phối hợp thực hiện. Thực hiện giám định BHYT điện tử trên Hệ thống thông tin giám định BHYT; tăng cường kiểm tra, xác minh tình trạng lạm dụng quỹ BHYT; kiên quyết từ chối thanh toán chi phí khám, chữa bệnh không đúng quy định, bất hợp lý. Rà soát, thẩm định, xác định số vượt dự toán chi khám, chữa bệnh BHYT của các địa phương báo cáo Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt bổ sung nguồn kinh phí vượt dự toán nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các cơ sở y tế...

Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thu, chi, quản lý và sử dụng các quỹ BHXH, BHYT, BHTN của Hội đồng quản lý BHXH. Giám sát là một trong những chức năng quan trọng của Hội đồng quản lý BHXH được Chính phủ giao nhằm bảo đảm các chính sách BHXH, BHTN, BHYT được thực hiện đúng pháp luật; đồng thời, phát hiện, ngăn chặn những hành vi vi phạm, lạm dụng trong thực hiện các chính sách này để kịp thời chấn chỉnh, xử lý. Hoạt động giám sát của Hội đồng quản lý BHXH cũng nhằm đánh giá các quy định, chính sách, chế độ về BHXH, BHTN, BHYT được áp dụng trong thực tiễn có phù hợp, hay đang có những tồn tại, hạn chế để từ đó có những đề xuất, kiến nghị Chính phủ, Quốc hội sửa đổi, điều chỉnh ngày càng tốt hơn.

Bên cạnh đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, bảo đảm linh hoạt, hiệu quả; kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, lãng phí, trốn đóng, gian lận, trục lợi Quỹ BHXH, BHTN, BHYT. Tập trung thu hồi các khoản chi sai mục đích, sai quy định, các khoản nợ đóng, chậm đóng. Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thanh tra, kiểm tra; khai thác, phân tích dữ liệu để đánh giá, xác định dấu hiệu lạm dụng, trục lợi và các hành vi vi phạm pháp luật.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư quỹ. Theo đó: 1- Tập trung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý. Nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về hoạt động đầu tư quỹ tại các Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Việc làm theo hướng quy định thống nhất, tránh trùng lặp, chồng chéo và tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý nhà nước và thực hiện hoạt động đầu tư theo hướng chuyên nghiệp, minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế. Về nguyên tắc đầu tư, cần thống nhất theo nguyên tắc nêu tại Nghị quyết số 28/NQ-TW, đó là hoạt động đầu tư phải an toàn, bền vững và hiệu quả. Xây dựng kế hoạch và mục tiêu đầu tư dài hạn, trung hạn và phương án đầu tư được phê duyệt hằng năm gắn với dự báo về nghĩa vụ chi trả trong tương lai. 2- Tiếp tục thực hiện hoạt động đầu tư quỹ bảo đảm nguyên tắc và mục tiêu đã đề ra. Tăng cường công tác thu, mở rộng diện bao phủ BHXH, BHYT, mở rộng người tham gia BHXH bắt buộc sang các đối tượng khác. Kiện toàn tổ chức bộ máy kiểm soát công tác chi, bảo đảm chi đúng, chi đủ, kịp thời, tránh để xảy ra tình trạng trục lợi quỹ, giảm bớt thủ tục hành chính để giảm bớt chi phí, nghiên cứu tỉ lệ đóng - hưởng, xây dựng mô hình và nâng cao chất lượng công tác dự báo đầu tư để bảo đảm cân đối quỹ.

Phát huy những kết quả đã đạt được, trên cơ sở những định hướng tại các nghị quyết của Đảng; chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, ngành BHXH Việt Nam sẽ nỗ lực thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT nói chung và hoạt động quản lý, sử dụng Quỹ BHXH, BHYT nói riêng trong giai đoạn mới, góp phần bảo đảm ASXH, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững./.