Phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
TCCS - Xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc luôn là hai nhiệm vụ chiến lược, thống nhất biện chứng, là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam. Đứng trước những tác động của thời đại và trong nước, của con người và thiên nhiên..., để sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thắng lợi, một trong những vấn đề quan trọng là phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội một cách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.
1- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”(1). Để thực hiện được mục tiêu đó, cần phải có phương thức quản lý xã hội phù hợp với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc, lâu dài, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải tập trung xây dựng con người xã hội chủ nghĩa - nhân tố trung tâm, quyết định nhất; xây dựng một xã hội phát triển hài hòa cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh...
Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Bảo vệ Tổ quốc được thực hiện từ sớm, từ xa; bằng cả phương thức vũ trang và phi vũ trang; bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, dựa trên nền tảng đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, trong đó sức mạnh quốc phòng là then chốt, sức mạnh quân sự là đặc trưng, trực tiếp là sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân.
Xã hội có các yếu tố cấu thành bao gồm cơ sở kinh tế, cơ cấu xã hội, kiến trúc thượng tầng chính trị, đời sống văn hóa,... Xã hội cũng có thể là một lĩnh vực hoặc các lĩnh vực trong mối quan hệ với nhau, như kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Do đó, xem xét sự phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đòi hỏi vừa phải phân biệt, vừa phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,... đặc biệt là với kinh tế.
Phát triển là một hình thức vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Là thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam tham gia và thừa nhận định nghĩa phát triển bền vững của Liên hợp quốc, đó là: sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau(2).
Phát triển bền vững thể hiện ở sự vận động đi lên một cách vững chắc, hợp quy luật, văn minh, lành mạnh, là sự biến đổi trong mọi lĩnh vực, trong đó, nổi bật là kinh tế và môi trường, là quá trình phát triển bảo đảm sự bình đẳng giữa các thế hệ, có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, cân đối và hài hòa với phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, phát triển bền vững trong bối cảnh hiện nay không thể bỏ qua yếu tố khoa học - công nghệ và văn hóa. Khoa học - công nghệ thúc đẩy kinh tế phát triển, bảo đảm cho sự phát triển kinh tế song hành với cải thiện môi trường. Phát triển văn hóa - xã hội bền vững, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở nâng cao chỉ số hạnh phúc của từng gia đình, phát triển con người toàn diện cả về trí tuệ, nhân cách và thể lực chính là tạo nền tảng cho phát triển bền vững.
Phát triển xã hội bền vững là một mặt của phát triển bền vững và là một nội dung của xây dựng chủ nghĩa xã hội, gồm cơ cấu xã hội, điều kiện sống, chất lượng sống của con người, công bằng xã hội và các quan hệ xã hội, các thiết chế và cơ chế quản lý xã hội nhằm đáp ứng bình đẳng nhu cầu ngày càng tăng của con người cả trong hiện tại và mai sau.
Phát triển xã hội bền vững được đánh giá chủ yếu thông qua hai lĩnh vực kinh tế và môi trường, tức là xã hội bền vững phụ thuộc vào những biến đổi tích cực trong kinh tế và sự bảo đảm các yếu tố tiêu chuẩn về môi trường, đồng thời lại có tác động trở lại đến sự phát triển kinh tế và môi trường. Do vậy, nâng cao nhận thức, nhất là đối với lãnh đạo các cơ quan tham mưu, cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế và môi trường là rất cần thiết. Chỉ khi hiểu rõ mối quan hệ giữa quản lý phát triển kinh tế với quản lý môi trường thì mục tiêu phát triển bền vững mới được hiện thực hóa.
2- Ở Việt Nam, phát triển xã hội bền vững không phải bây giờ mới có mà tinh thần của nó nằm ngay trong sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam - sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; ở Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo nhằm lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản... và được hoàn thiện, hiện thực hóa dần qua quá trình gần một thế kỷ Đảng lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt, quan điểm về phát triển bền vững đã được khẳng định cụ thể lần đầu trong Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 25-6-1998, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và được tái khẳng định trong các chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng, trong các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, như Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) ban hành kèm theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg, ngày 17-8-2004, của Thủ tướng Chính phủ; Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 432/QĐ-TTg, ngày 12-4-2012 và Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững ban hành theo Quyết định số 622/QĐ-TTg, ngày 10-5-2017, của Thủ tướng Chính phủ,... và dần dần đã trở thành xu thế tất yếu trong quá trình phát triển đất nước.
Để phát triển xã hội bền vững, cần phải tiến hành quản lý phát triển xã hội. Theo nghĩa rộng, quản lý phát triển xã hội là hoạt động theo chức năng quản lý của Nhà nước, có sự tham gia của các tổ chức ngoài nhà nước để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là quá trình tổ chức và tác động liên tục của Nhà nước bằng tuyên truyền vận động, chính sách, luật pháp, hành chính, các nguồn lực trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại để phát triển đất nước, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của công dân và thực thi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chống thù trong giặc ngoài, thiết lập, củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng có lợi với các nước và các tổ chức quốc tế. Với nghĩa đó, quản lý phát triển xã hội tương đồng với quản lý quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Theo nghĩa hẹp, quản lý phát triển xã hội là một phân nhánh (hay bộ phận, nội dung - tùy cách tiếp cận) quản lý của Nhà nước - quản lý sự phát triển để giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra, phát triển cá nhân, cộng đồng và các quan hệ xã hội, phát triển xã hội bền vững, trọng tâm là tiến bộ và công bằng xã hội.
Ở Việt Nam, quản lý phát triển xã hội dù theo nghĩa nào thì đều thể hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích của toàn thể nhân dân, của quốc gia, dân tộc và được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự tổ chức, quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước, trong đó có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quản lý phát triển xã hội được thực hiện thông qua các công cụ, phương tiện, nguồn lực hiện có; thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung phù hợp với nhiệm vụ của cách mạng trong mỗi giai đoạn phát triển; tuân thủ theo mối quan hệ chính trị - pháp lý “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là vấn đề tất yếu, khách quan, phản ánh ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, quốc gia, dân tộc, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Trong những năm gần đây, bối cảnh tình hình khu vực diễn biến phức tạp, đặt ra những yêu cầu mới về phát triển xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Mối quan hệ giữa phát triển xã hội bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trở thành nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở phải có nhận thức sâu sắc và có hành động thực tiễn. Phải kết hợp giữa mục tiêu phát triển xã hội với mục tiêu từng bước hiện đại hóa các trang thiết bị, vũ khí, khí tài cho lực lượng quân đội, bên cạnh đó tăng cường đối ngoại quốc phòng, bảo vệ lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Nếu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam thì phát triển xã hội bền vững là một mục tiêu, yếu tố cấu thành hướng đích đi tới của xây dựng đất nước; quản lý phát triển xã hội là một phân nhánh (bộ phận, nội dung) quản lý của Nhà nước đối với toàn xã hội. Trong 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước, lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ trên. Kết quả của quá trình này là sự biến đổi về lượng, biến đổi về chất ở từng bộ phận của xã hội cho đến sự nhảy vọt về chất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội thời gian qua đã bao hàm trong đó cả quá trình phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cũng đồng thời xây dựng được một xã hội phát triển bền vững, lâu dài qua nhiều thế hệ, giai đoạn sau phát triển hơn giai đoạn trước dù trên thực tế, có thể tại một thời điểm nhất định có sự chững lại.
Phát triển xã hội bền vững suy cho cùng chính là nội dung cơ bản của xây dựng chủ nghĩa xã hội, là công cuộc xây dựng những “tế bào” vững mạnh hợp thành “cơ thể” xã hội chủ nghĩa, là làm cho kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội xã hội chủ nghĩa ra đời, phát triển, đứng vững trong cuộc cạnh tranh, tự khẳng định và có tiếng nói quyết định... Trong tiến trình ấy, công cuộc bảo vệ Tổ quốc là một hoạt động song hành, nhưng luôn đòi hỏi phải có chiến lược và kế hoạch riêng, phải đầu tư công sức chỉ đạo, đầu tư tài chính và lực lượng thích đáng.
Trong bối cảnh thế giới diễn biến phức tạp và khó lường, Đảng ta đã xác định “Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh”(3). Rõ ràng chủ trương kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo đã được Đảng ta xác định rõ. Tuy nhiên, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng chỉ rõ “nhận thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc. Kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh của một số cấp ủy, chính quyền có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để; còn thiếu những giải pháp mang tính chiến lược, tổng thể. Cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh chưa hoàn thiện”(4). Vấn đề đặt ra hiện nay là cần nhận thức rõ, đặc biệt trong hoạt động thực tiễn cần phân biệt rõ các định hướng, chiến lược, kế hoạch phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam không thay thế các định hướng, chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hiện có, mà chỉ là căn cứ để cụ thể hóa các định hướng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường quốc gia từng thời kỳ cũng như xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển của các ngành, địa phương, nhằm kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển xã hội với phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước, là cơ sở vững chắc tạo ra động lực tinh thần, vật chất, góp phần bảo vệ Tổ quốc.
Để bảo vệ Tổ quốc phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị. Đồng thời, trong tình hình mới, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cũng được xác định bao gồm cả bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ công cuộc đổi mới; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội(5).
Việc hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ phát triển xã hội bền vững và quản lý tốt xã hội ở từng thời kỳ sẽ bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm sự phát triển toàn diện con người Việt Nam; làm giảm tình trạng đói nghèo và thu hẹp dần khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp và nhóm người trong xã hội, giảm các tệ nạn xã hội...; nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa các thế hệ trong xã hội; tạo điều kiện sống, chất lượng sống của con người ngày càng tốt hơn; các quan hệ xã hội, các thiết chế và cơ chế quản lý xã hội ngày càng hoàn thiện hơn; duy trì và phát huy được tính đa dạng và bản sắc văn hóa dân tộc. Không ngừng nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần... cho cá nhân và cộng đồng, xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển bền vững đất nước...
Xã hội phát triển bền vững sẽ củng cố và tạo dựng niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước, với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ là nền tảng kinh tế - xã hội vững chắc để xây dựng nền quốc phòng tiên tiến, từng bước hiện đại mà còn tạo dựng động cơ, ý chí và quyết tâm cho mọi tầng lớp nhân dân, huy động sức mạnh của nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc - tạo nguồn sức mạnh, tạo động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3- Để phát triển xã hội bền vững, quản lý phát triển xã hội phải đóng vai trò gắn kết và thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cụ thể cần:
Một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện trước hết trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, định hướng, ban hành chiến lược, kế hoạch phát triển; thứ hai là trong quá trình tổ chức, lãnh đạo, quản lý, điều khiển quá trình vận động, phát triển của đất nước. Quá trình này phải bảo đảm nguyên tắc tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tố chất chính trị - tinh thần ưu việt của con người Việt Nam và trạng thái chính trị - tinh thần lành mạnh của toàn xã hội, tạo cơ sở nền tảng để bồi dưỡng, nâng cao lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, các giá trị này càng cần được phát huy thành hạt nhân, thành những giá trị cơ bản nhất, cao quý nhất, mang tính chủ đạo và xuyên suốt.
Ba là, tạo sự thống nhất cao cả về nhận thức và hành động trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về khát vọng, ý chí, nỗ lực quyết tâm xây dựng đất nước phát triển bền vững, giàu mạnh, phồn vinh và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, luật pháp, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, nhất là hệ thống luật pháp và chính sách xã hội, an sinh xã hội để tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động xã hội.
Năm là, sử dụng, phát huy hiệu quả các nguồn lực đầu tư từ Nhà nước, khai thác tối đa các nguồn lực xã hội trong quá trình quản lý xã hội phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
Sáu là, luôn đề cao và chú trọng thực hiện phát triển xã hội bền vững gắn với phát triển kinh tế bền vững và bảo vệ môi trường vì mục tiêu bảo đảm và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân, làm cho nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả lao động, tạo cơ hội bình đẳng để giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm, thu nhập cho người dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bảy là, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, có cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành hợp lý, có hiệu lực, hiệu quả cao trong lãnh đạo, quản lý, điều khiển các quá trình phát triển xã hội và giải quyết các quan hệ xã hội. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Xây dựng và tăng cường vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Phát huy bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân để tổ chức, quản lý, điều khiển các quá trình xã hội phát triển bền vững. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác dân vận, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Tám là, kịp thời phát hiện, giải quyết thỏa đáng, hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là sự phân hóa giàu - nghèo, sự mất cân đối về cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành, nghề... Kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới./.
--------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 13, tr. 30
(2) Xem: Không chỉ là tăng trưởng kinh tế, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2005
(3), (4), (5) Xem: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển