Thực trạng công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra

TS. PHẠM VIỆT DŨNG
Tạp chí Cộng sản
06:30, ngày 26-11-2022

1. Khái niệm và vai trò của công nghiệp chế biến, chế tạo

Công nghiệp chế biến, chế tạo

Công nghiệp chế biến, chế tạo (CBCT) một bộ phận của khu vực công nghiệp - xây dựng, là những ngành tham gia vào việc biến đổi hàng hoá, nguyên liệu hoặc các chất liệu khác nhau thành những sản phẩm mới. Quá trình biến đổi này có thể là vật lý, hóa học hoặc cơ học để chế biến, sản xuất hàng hóa phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đó là những hoạt động kinh tế với quy mô sản xuất lớn, được sự hỗ trợ mạnh mẽ của tiến bộ công nghệ, khoa học và kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển. Vật liệu, chất liệu, hoặc các thành phần biến đổi là nguyên liệu thô từ các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, khai thác mỏ hoặc quặng cũng như các sản phẩm khác của hoạt động CBCT. Những thay đổi, đổi mới hoặc khôi phục lại hàng hoá cũng được xem là hoạt động CBCT. Các chủ thể trong ngành này không chỉ là các doanh nghiệp, nhà máy hoặc xưởng sản xuất sử dụng máy móc và thiết bị thủ công để tạo ra sản phẩm, mà bao gồm cả các hộ gia đình làm ra sản phẩm thủ công tại nhà để bán ra thị trường, trong đó có sản phẩm như may mặc, thực phẩm… cũng thuộc ngành công nghiệp CBCT. Các chủ thể của công nghiệp CBCT còn bao gồm các doanh nghiệp, hộ gia đình cung cấp dịch vụ gia công, xử lý vật liệu và bảo trì, bảo dưỡng, lắp đặt máy móc, thiết bị mà không trực tiếp làm ra sản phẩm.

Có thể thấy, không giống với các phân ngành công nghiệp khác, công nghiệp CBCT là ngành trực tiếp tạo ra nền tảng vật chất cho nền kinh tế và xã hội, sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho quốc gia; và cũng là ngành có mối liên hệ, gắn kết chặt chẽ, mật thiết nhất với hai khu vực kinh tế còn lại là nông nghiệp và dịch vụ. Sự gắn kết này được tổ chức theo chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị - là chuỗi của các hoạt động mà một sản phẩm phải đi qua tuần tự các hoạt động đó để chuyển hóa từ một ý tưởng thành một sản phẩm cụ thể, và tại mỗi hoạt động sản phẩm đó đi qua, giá trị của sản phẩm được tăng thêm.

Vai trò của công nghiệp chế biến, chế tạo

Thứ nhất, công nghiệp CBCT là một bộ phận của ngành công nghiệp và là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Trong các phân ngành công nghiệp, công nghiệp CBCT đóng vai trò chủ đạo, tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất cho khu vực công nghiệp và tác động lan tỏa tổng thể đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Quy mô, tốc độ phát triển của ngành ảnh hưởng tới quy mô, chiều hướng và tốc độ phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, cơ cấu của ngành công nghiệp CBCT có ảnh hưởng lớn tới cơ cấu chung kinh tế của một quốc gia. Bình quân trong giai đoạn 2011 - 2020, công nghiệp CBCT chiếm tỷ trọng 14,9% GDP của toàn nền kinh tế. Tỷ trọng công nghiệp CBCT càng lớn, quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao thì đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của ngành này càng lớn. Tốc độ tăng bình quân GDP cả nước đạt 5,95% trong giai đoạn 2011 - 2020 nhờ tăng trưởng cao của ngành công nghiệp CBCT (đạt 10,44%/năm trong giai đoạn này).

Ở các nước công nghiệp, dù là nước đã phát triển từ lâu hay mới nổi, trong suốt 20 năm qua, công nghiệp CBCT vẫn luôn đóng góp khoảng 20% trong GDP. Năm 2019, khu vực sản xuất CBCT của Trung Quốc chiếm 27,1% GDP, Hàn Quốc 25,3%, Thái Lan 25,3%, Malaysia 21,5%, Nhật Bản 20,7%, Singapore 19,8%, và Đức 19,4%. Cũng cần lưu ý là các cơ sở sản xuất, công nghiệp CBCT của các nước phát triển đã được dịch chuyển ra nước ngoài nhờ toàn cầu hoá và phân công lao động quốc tế thông qua dòng vốn đầu tư nước ngoài, do vậy trên thực tế năng lực công nghiệp CBCT các quốc gia này có thể còn lớn hơn nhiều.

Thứ hai, công nghiệp CBCT cung cấp việc làm, thu hút nhân công, giải quyết được một số vấn đề xã hội. Nước ta có tỷ lệ lao động nông nghiệp tương đối cao, tuy nhiên, với trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì hoạt động sản xuất nông nghiệp được cải tiến, không sử dụng nhiều lao động chân tay mà tăng cường sử dụng máy móc thiết bị. Chính vì vậy, nhu cầu tạo việc làm cho số lao động nông nghiệp dư thừa trở nên cấp bách. Công nghiệp CBCT là một trong những ngành giải quyết vấn đề xã hội. Trong những năm qua, một số ngành CBCT như dệt, may mặc, giày da, trang phục, chế biến nông sản… phát triển mạnh một phần chính là nhờ khả năng thu hút nhiều lao động của các ngành đó.

Trên thế giới, trước đây, nhờ phục hồi các ngành công nghiệp CBCT mà nước Mỹ trong những năm 1920, 1930 có thể cung cấp hàng chục triệu việc làm mới, vượt qua cuộc Đại suy thoái và nhanh chóng trở thành cường quốc thế giới. Năm 2019, tại Trung Quốc, 28,2% việc làm được tạo ra từ ngành công nghiệp CBCT, tại Đức là 26,8%, Nhật Bản 24,3%, Hàn Quốc 24,8%, Malaysia 27,2%, Thái Lan 23,4%. Gần đây, nhận thức được tầm quan trọng của các ngành sản xuất, CBCT trong tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm, chính phủ Mỹ đã triển khai nhiều biện pháp mạnh để đưa hoạt động sản xuất quay trở lại đất nước.

Thứ ba, hoạt động công nghiệp chế biến, đặc biệt là công nghiệp chế biến sâu các sản phẩm thô từ nguyên liệu trong nước cho phép ngành CBCT có thể thực hiện liên kết chuỗi, gồm nhiều hoạt động công nghiệp chế biến trong nội bộ nền kinh tế, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm nội địa. Từ đó tăng tính kết nối liên ngành, liên vùng trong nước và mở rộng hơn là tăng cường liên quốc gia, liên khu vực và quốc tế. Điều này làm cho ngành CBCT tạo ra tác động tổng hợp với sức mạnh lan tỏa phụ thuộc vào hệ số liên kết đối với nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra trong luồng giao dịch sản phẩm của các hoạt động kinh tế liên tỉnh, liên vùng và liên quốc gia.

Thứ tư, công nghiệp CBCT cung cấp tư liệu sản xuất cho quá trình sản xuất và tư liệu tiêu dùng phục vụ đời sống dân cư và phục vụ xuất khẩu. Bất cứ ngành sản xuất nào cũng cần có tư liệu sản xuất, ví dụ như ngành nông nghiệp cần đến các công cụ sản xuất nông nghiệp, ngành dịch vụ cần những tư liệu để phân loại, bảo quản, đóng gói, phân phối các sản phẩm vật chất và dịch vụ. Với chức năng đó, ngành công nghiệp CBCT đã tạo ra những tư liệu sản xuất để vận hành các ngành nghề sản xuất, dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò cung cấp sản phẩm tiêu dùng cho người dân ngày càng quan trọng với giá trị sử dụng các sản phẩm tiêu dùng cho đời sống ngày càng phong phú, đa dạng. Nếu như các sản phẩm công nghiệp CBCT trong thời kỳ trước chỉ tập trung vào giá trị sử dụng hay công dụng của sản phẩm thì ngày nay các sản phẩm đó đã đáp ứng được yêu cầu về hiệu quả sử dụng (tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu, thời gian sử dụng lâu), đặc biệt là khả năng tái chế sau quá trình sử dụng, giảm thiểu các tác động bất lợi tới môi trường.

Thứ năm, công nghiệp CBCT góp phần quan trọng trong việc tích lũy cơ sở vật chất cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Để tạo dựng một nền công nghiệp CBCT phải hình thành và xây dựng một lượng vốn đầu tư khá lớn. Do được trang bị công nghệ và thiết bị hiện đại nên một số ngành công nghiệp CBCT có năng suất lao động cao, tạo ra tích lũy cao hơn so với lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. Hơn nữa, sản xuất công nghiệp CBCT thường ít chịu ảnh hưởng bất lợi từ các yếu tố thời tiết nên ổn định. Do đó, kết quả tích lũy từ ngành công nghiệp CBCT sẽ được dùng cho các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và thực hiện kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong dài hạn.

2. Công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam

Vai trò của công nghiệp chế biến, chế tạo đối với mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng, hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Công nghiệp CBCT cung cấp một nền tảng quan trọng cho việc học hỏi và phát triển kỹ năng, đổi mới sáng tạo, gắn liền với hoạt động nghiên cứu phát triển. Các nước công nghiệp phát triển cũng chính là nơi sản sinh ra những ý tưởng và phát minh mới, những ngành công nghiệp quan trọng đối với tương lai kinh tế của đất nước, bao gồm các vật liệu tiên tiến, công nghệ sinh học, công nghệ nano và các thiết bị cơ khí chính xác. Sự ra đời của các công nghệ mang tính đột phá cũng đều xuất phát từ các ngành công nghiệp CBCT, là nền tảng của các cuộc cách mạng công nghiệp. Thế giới ngày nay đã trải qua bốn cuộc cách mạng công nghiệp, mỗi cuộc cách mạng đều được khởi xướng từ sự thay đổi có tính đột phá về công nghệ sản xuất. Nếu như các phát minh liên quan đến cơ khí chế tạo là nền tảng cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và hai, thì những phát minh về điện tử, cơ điện tử là nền tảng cho cuộc cách mạng thứ ba và tư gần đây.

Các tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp đầu chuỗi trong các ngành công nghiệp CBCT là những người đi đầu trong việc tạo ra sự đổi mới công nghệ sản xuất này, và các tập đoàn này đa phần thuộc về các nước có ngành công nghiệp phát triển. Sự cạnh tranh sức mạnh giữa các quốc gia hiện nay là sự cạnh tranh về công nghệ sản xuất. Sức mạnh của công nghệ sản xuất quyết định sức mạnh của quốc gia, và sức mạnh của công nghiệp CBCT là chìa khóa để các quốc gia đổi mới mô hình tăng trưởng, tiến lên nấc thang cao hơn của sự phát triển.

Mặt khác, phát triển công nghiệp CBCT lớn mạnh cũng là tạo nền tảng vững chắc và phát triển thị trường cho các ngành dịch vụ và nông nghiệp và ngược lại, phát triển hiệu quả các ngành nông nghiệp và dịch vụ phục vụ sản xuất chính là góp phần tạo nguồn cung ứng và nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của các ngành công nghiệp CBCT. Sức khỏe tổng thể của nền kinh tế do đó luôn được phát triển.

Việt Nam hiện nay đang ở bước chuyển tiếp từ giai đoạn 1 sang giai đoạn 2 trong quá trình phát triển công nghiệp, trong đó, mức độ hấp thụ công nghệ và trình độ quản lý sản xuất vẫn đang ở mức rất hạn chế. Quá trình chuyển đổi này hiện diễn ra tương đối chậm chạp, mối liên kết giữa các doanh nghiệp FDI có trình độ công nghệ và các doanh nghiệp trong nước lỏng lẻo, chưa tạo ra được sự lan tỏa và tận dụng tối đa hiệu quả của FDI đầu tư tại Việt Nam. Một trong những nguyên nhân chính là do năng lực các doanh nghiệp trong nước quá hạn chế, chưa đủ sức để tiếp cận và tiếp nhận sự lan tỏa với năng lực hiện có, trong khi các chính sách hỗ trợ thúc đẩy từ phía nhà nước chưa đủ mạnh, thiếu tính đồng bộ theo một kế hoạch tổng thể phát triển chung các ngành công nghiệp CBCT. Trong đó, cần đặc biệt lưu ý đối với bẫy thu nhập trung bình mà dường như một số nước ASEAN đã vướng do không chuyển sang được giai đoạn sáng tạo, làm chủ hoàn toàn công nghệ và sản xuất hàng hóa chất lượng cao như Hàn Quốc hay Đài Loan (Trung Quốc) đã đạt được.

Phát triển công nghiệp, đặc biệt là đối với các quốc gia đi sau như Việt Nam, cần một quá trình tuần tự và lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn phát triển để có thể từng bước hiện đại hóa, nâng cao năng lực của các ngành sản xuất trong nước. Việt Nam hiện tại gần như vẫn mới chỉ ở giai đoạn đầu của phát triển công nghiệp, với việc tận dụng lợi thế cạnh tranh từ thâm dụng lao động giá rẻ, sản xuất đơn giản dưới sự hướng dẫn của nước ngoài. Do đó, “đổi mới” thích hợp nhất đối với một quốc gia thu nhập trung bình thấp có dân số đông và cơ cấu dân số như Việt Nam là làm được cái gì đó mới trong bối cảnh của đất nước chứ không phải cố gắng sáng tạo ra một cái gì đó hoàn toàn mới trên thế giới. Phát triển công nghiệp CBCT thông qua việc nâng cao khả năng thích ứng và năng lực của các doanh nghiệp công nghiệp, mua lại và đồng hóa kiến thức, kỹ năng và công nghệ phổ biến đã được áp dụng ở các nền kinh tế tiên tiến là điều vô cùng quan trọng và nên trở thành bài học cho Việt Nam (những cảnh báo này cần được lưu ý cho các ngành được nhấn mạnh quá mức trong các chương trình của Việt Nam trong thời gian vừa qua như công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ nano, vật liệu mới…).

Trong thời gian tới, để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, tránh bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần tiếp tục theo đuổi mục tiêu công nghiệp hóa lấy công nghiệp CBCT làm trọng tâm. Vì vậy, nguồn lực xã hội nên tập trung vào việc xây dựng và nâng cao năng lực, năng suất cho các doanh nghiệp công nghiệp trong nước, hình thành và phát triển các doanh nghiệp công nghiệp mạnh, các chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị trong nước (bao gồm cả hoạt động sản xuất và dịch vụ trên toàn chuỗi), có đủ năng lực cạnh tranh toàn cầu; tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi để các doanh nghiệp công nghiệp trong nước có thể lớn mạnh, tạo ra giá trị gia tăng trong nước lớn hơn, kết nối được với khu vực đầu tư nước ngoài, và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Đóng góp của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo vào tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 - 2020  

Số liệu thống kê trong giai đoạn vừa qua cho thấy, công nghiệp CBCT ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, với mức đóng góp trong GDP đã tăng từ 12,9% năm 2010 lên 16,7% năm 2020. Nội ngành công nghiệp CBCT cũng đang có sự dịch chuyển cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghệ cao cả về giá trị gia tăng và về kim ngạch xuất khẩu.

Tỷ trọng giá trị tăng thêm trong GDP toàn nền kinh tế của ngành công nghiệp khai khoáng và công nghiệp CBCT đã có những chuyển biến tích cực trong những năm gần đây, sự gia tăng mạnh mẽ của ngành công nghiệp CBCT là ưu điểm nổi bật của nền kinh tế trong giai đoạn 2011 - 2020, sự giảm dần vai trò của ngành khai khoáng trong nền kinh tế để hướng đến phát triển bền vững hơn trong tương lai là hướng đi tích cực và đúng đắn của nền kinh tế Việt Nam. Năm 2020, tỷ trọng giá trị tăng thêm của ngành CBCT sơ bộ chiếm 16,7% trong GDP, tăng 3,35 điểm phần trăm so với năm 2011; ngành khai khoáng chiếm 5,55%, giảm 4,32 điểm phần trăm. Trung bình mỗi năm trong giai đoạn 2011 - 2020, ngành CBCT tăng 0,37 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 0,39 điểm phần trăm.

Những kết quả tích cực về tăng trưởng kinh tế đạt được trong những năm gần đây là nhờ có sự điều hành, quản lý nền kinh tế kịp thời và hiệu quả của Chính phủ cũng như nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng. Năm 2020, mặc dù kinh tế thế giới và khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh COVID-19 song nền kinh tế nước ta vẫn duy trì tăng trưởng, đạt mức tăng trưởng dương, sơ bộ năm 2020 đạt tốc độ tăng 2,91%, trong đó công nghiệp CBCT tăng 5,82%, tiếp tục là động lực quan trọng, đóng góp cho tăng trưởng của nền kinh tế.

3. Một số vấn đề đặt ra

Mặc dù được xác định là đầu tàu, động lực tăng trưởng của nền kinh tế nhưng trình độ đạt được của công nghiệp CBCT hiện nay còn thấp xa so với yêu cầu của một nước công nghiệp. Bên cạnh những thành tựu nhất định trong giai đoạn 2011 - 2020, khả năng cạnh tranh của ngành CBCT còn yếu so với các nước trong khu vực. Thứ hạng của một số chỉ tiêu về công nghiệp CBCT của nước ta chỉ cao hơn các nước Lào, Cam-pu-chia, Mi-an-ma, thấp hơn nhiều so với các nước Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a.

Tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm chưa cao. Theo báo cáo của Bộ Công thương năm 2019, ngành sản xuất, lắp ráp ô-tô, tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi còn thấp chưa đạt mục tiêu Chiến lược phát triển ngành đề ra (30% - 40% đến 2020), đến nay mới đạt bình quân 7% - 10%. Một số dòng xe đã đáp ứng mục tiêu đề ra như các dòng xe tải đến 7 tấn đạt tỷ lệ nội địa hóa trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đạt tỷ lệ nội địa hóa đến 40%. Tỷ lệ nội địa hóa các ngành điện tử tin học, viễn thông chỉ đạt 15%, điện tử chuyên dụng và các ngành công nghiệp công nghệ cao chỉ đạt 5%. Tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp dệt may mới đạt khoảng 40% - 45%. Vải sử dụng cho ngành phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu. Ngành vải may của Việt Nam hiện nay đạt sản lượng khoảng 2,3 tỷ m2/năm, mới chỉ đáp ứng được khoảng 25% nhu cầu thị trường trong nước. Ngành da, giày, nguyên phụ liệu chiếm tới 68% - 75% trong cơ cấu giá thành sản phẩm giày dép, nhưng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm này của doanh nghiệp Việt Nam hiện chỉ đạt 40% - 45%.

Do độ mở kinh tế lớn (năm 2020 là 208,25%), ngành công nghiệp CBCT phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, thiếu chủ động và dễ tổn thương trước các biến động của thị trường thế giới (điển hình là đại dịch COVID-19, hạn hán, bão lụt..).

Đầu tư trong công nghiệp chưa đi vào chiều sâu, việc thu hút và tận dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn hạn chế, đặc biệt là việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ; nghiên cứu khoa học trong các doanh nghiệp CBCT còn yếu; sản xuất các sản phẩm phụ trợ còn thiếu nhiều chủng loại. Phần lớn doanh nghiệp CBCT là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, chưa chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, chủng loại sản phẩm chưa phong phú, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, năng lực cạnh tranh nhìn chung thấp.

Nguyên nhân của những hạn chế của công nghiệp CBCT Việt Nam có thể kể đến:

- Nguyên nhân từ nhận thức của các cấp Trung ương và địa phương về phát triển công nghiệp

Trong hơn 30 năm qua, Đảng đã nhất quán ban hành nhiều chủ trương, đường lối về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng đến mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tuy nhiên, nhận thức của nhiều cơ quan Trung ương và địa phương về phát triển công nghiệp còn hạn chế dẫn đến các chủ trương của Đảng chưa được thực thi hiệu quả, cụ thể:

+ Do chưa nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của công nghiệp CBCT trong quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy quốc gia thoát bẫy thu nhập trung bình, các định hướng và đường lối của Đảng về phát triển công nghiệp CBCT chưa được thể chế hóa đầy đủ và thống nhất bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cao nhất của nhà nước.

+ Chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam còn dàn trải, việc bố trí nguồn lực cho phát triển công nghiệp chưa đủ mạnh, chưa tạo điều kiện thuận lợi tối đa để công nghiệp phát triển, trong đó, quan trọng nhất là nhận thức về đối tượng cần hướng đến của các chính sách phát triển công nghiệp là khu vực kinh tế tư nhân chưa được chú trọng.

Theo chủ trương của Đảng, các doanh nghiệp nhà nước sẽ được cổ phần hóa và tiến tới thoái toàn bộ vốn Nhà nước trong các ngành nghề mà Nhà nước không cần nắm giữ tỷ lệ chi phối, trong đó có các doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp CBCT. Do đó, các chủ thể đóng vai trò chủ yếu trong quá trình phát triển công nghiệp CBCT là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài nhà nước, bao gồm các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn và cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao giá trị gia tăng cho các ngành công nghiệp, phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước. Tuy nhiên, các chính sách về phát triển công nghiệp trong thời gian vừa qua chưa chú trọng đúng mức đến các đối tượng này. Các nguồn lực và hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp ít được quan tâm, đặc biệt tại các địa phương.

- Nguyên nhân từ việc tổ chức thực thi chính sách

+ Chưa có sự thống nhất, đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong phát triển công nghiệp, đặc biệt là giữa Trung ương và địa phương. Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền (ở cả Trung ương và địa phương) về tầm quan trọng của chính sách công nghiệp quốc gia có nơi, có lúc còn chưa đầy đủ, bị ảnh hưởng bởi lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của nhiều cấp ủy, chính quyền còn thụ động, thiếu quyết liệt. Quản lý của Nhà nước đối với một số lĩnh vực công nghiệp còn nhiều bất cập, chồng chéo, có lúc bị buông lỏng, chưa quản lý và giám sát tốt về năng suất và hiệu quả đầu tư trong công nghiệp.

Việc phân công, phân cấp quản lý công nghiệp và phân định vai trò của Trung ương, địa phương, các ngành trong quản lý phát triển công nghiệp còn nhiều bất hợp lý.

+ Vai trò của địa phương trong phát triển công nghiệp còn nhiều hạn chế. Chính quyền Trung ương là cơ quan đầu não của quốc gia, chịu trách nhiệm tổ chức việc quản lý, khai thác các nguồn lực của đất nước một cách có hiệu quả theo các tiêu chí kinh tế được đặt ra. Tuy nhiên, chính quyền Trung ương không thể tự mình kiểm soát được toàn bộ các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như phát triển công nghiệp nói riêng trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng chính quyền địa phương, luôn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế ở nhiều quốc gia. Trong bất kỳ hệ thống chính trị nào, chính quyền trung ương chỉ có thể có quyền lực khi được chính quyền địa phương ủng hộ và tin tưởng và ngược lại chính quyền địa phương cũng cần dựa vào chính quyền trung ương để khẳng định vị thế của mình tại địa phương.

Về mặt tổ chức, vai trò của chính quyền địa phương ở Việt Nam có hai mặt. Một mặt, với tư cách là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước thống nhất, chính quyền địa phương thay mặt chính quyền Trung ương tổ chức quyền lực, thực thi nhiệm vụ quản lý trên lãnh thổ địa phương trong cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Mặt khác, chính quyền địa phương lại là cơ quan do nhân dân địa phương lập ra (trực tiếp và gián tiếp) để thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương nhằm phục vụ nhu cầu của nhân dân địa phương trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, luật và các văn bản pháp luật khác của cơ quan nhà nước cấp trên. Do đó, đối với phát triển kinh tế nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng, chính quyền địa phương vừa là cơ quan thực thi các chính sách của chính quyền Trung ương, vừa tự mình trực tiếp tiến hành các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thông qua các hoạt động thường xuyên, liên tục của các cơ quan nhà nước tại địa phương.

Đặc biệt, sự ra đời của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung vào năm 2019), với các nguyên tắc “phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính trong việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn theo quy định của pháp luật”“chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền” trong việc phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương, chính quyền địa phương sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Vai trò của chính quyền địa phương đối với phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng được thể hiện ở các điểm sau đây:

Thứ nhất, chính quyền địa phương ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong việc thu - chi ngân sách nhà nước. Tỷ lệ chi ngân sách địa phương trong tổng chi ngân sách nhà nước ngày càng có xu hướng tăng lên, cùng với đó là xu hướng giảm xuống trong tỷ lệ chi ngân sách nhà nước của Trung ương; đồng thời, các địa phương (đặc biệt là các địa phương lớn) ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc đóng góp thu ngân sách nhà nước cho Trung ương. Điều này thể hiện việc chính quyền địa phương ngày càng có vai trò chủ động hơn trong việc trực tiếp sử dụng các nguồn lực của nhà nước cho phát triển kinh tế.

Thứ hai, thông qua việc xây dựng và thực thi các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cũng như ban hành các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc thù (tiền thuê đất, xây dựng hạ tầng, xử lý môi trường...) của địa phương, chính quyền địa phương trực tiếp phân bổ các nguồn lực để thúc đẩy phát triển các lĩnh vực kinh tế - trong đó có công nghiệp. Việc phân bổ nguồn lực này hết sức quan trọng trong việc thu hút đầu tư các dự án công nghiệp để thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp trên địa bàn. Đã có nhiều địa phương từ diện khó khăn trở thành điển hình thành công trong việc thay đổi bộ mặt kinh tế nhờ xây dựng và thực thi thành công các chiến lược phát triển công nghiệp trên địa bàn như Quảng Nam, Hà Tĩnh, Thanh Hóa..., góp phần rất lớn vào việc phát triển công nghiệp của cả nước.

Thứ ba, chính quyền địa phương là các cơ quan trực tiếp và thường xuyên thực hiện các công việc nhằm bảo đảm hoạt động sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp - chứ không phải là chính quyền Trung ương. Như đã đề cập, hầu hết các doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp CBCT thuộc thành phần kinh tế tư nhân, trong đó có khoảng 98% là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có hoạt động gắn chặt với địa phương. Do đó, chính quyền địa phương đóng vai trò tối quan trọng trong việc phát triển hệ thống doanh nghiệp công nghiệp, thông qua việc tạo lập và cải cách môi trường kinh doanh trên địa bàn cũng như trực tiếp thực hiện các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp (như các hỗ trợ về vốn, tài chính, thị trường...).

Thứ tư, chính quyền địa phương cũng có vai trò quyết định trong việc phát triển nguồn lực lao động để trực tiếp cung cấp cho các doanh nghiệp. Việc đào tạo và cơ cấu hợp lý nguồn lao động ở địa phương (đặc biệt là lao động có tay nghề cho các ngành công nghiệp) là một trong những điều kiện tiên quyết để có thể đẩy mạnh thu hút đầu tư và qua đó thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp trên địa bàn.

Thứ năm, thông qua việc thúc đẩy phát triển công nghiệp trên địa bàn, chính quyền địa phương đóng vai trò dẫn dắt, liên kết để phát triển kinh tế vùng – đặc biệt là vai trò của các địa phương lớn trong các vùng kinh tế trọng điểm tại ba miền Bắc, Trung, Nam - nhằm phân bổ hiệu quả hơn các nguồn lực của đất nước, phát huy lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp trên toàn lãnh thổ.

Tuy có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển công nghiệp của quốc gia, các địa phương còn rất thụ động trong việc triển khai thực hiện chính sách phát triển công nghiệp quốc gia. Đây là một trong những nguyên nhân lớn nhất khiến việc triển khai các chính sách công nghiệp quốc gia gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và thiếu hiệu quả.

 Mặc dù đều đặt ra các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội (trong đó có công nghiệp) tại các văn kiện đại hội Đảng bộ các cấp trong mỗi nhiệm kỳ 5 năm, tuy nhiên, phần lớn các địa phương không xây dựng các tiêu chí cụ thể, không có các chương trình hành động cụ thể và không bố trí nguồn lực phù hợp để triển khai các hoạt động phát triển công nghiệp trên địa bàn; trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam lại là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và hoạt động của doanh nghiệp gắn chặt với địa phương.

Thậm chí, có địa phương còn có các chủ trương, chính sách đi ngược lại hoặc không phù hợp với chủ trương của Trung ương về phát triển các ngành công nghiệp (nhiều địa phương trong thời gian vừa qua đã có những chủ trương hạn chế thu hút đầu tư các ngành, như dệt nhuộm, thuộc da, may mặc, luyện - cán thép... trong khi đây là các ngành có vai trò rất quan trọng đối với việc tự chủ nguồn sản xuất trong nước cũng như bảo đảm các yêu cầu về quy tắc xuất xứ của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực để tận dụng các ưu đãi thuế quan từ các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA)./.