Hỗ trợ doanh nghiệp trong tận dụng tối đa hiệu quả các hiệp định thương mại tự do

Nguyễn Thị Hiền
Giám đốc Sở Công Thương Quảng Ninh
12:08, ngày 26-11-2022

TCCS - Hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế tất yếu của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia; trong nhiều thập kỷ qua, toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại là xu thế chủ đạo và được coi là động lực chính của tăng trưởng kinh tế thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đồng thời với đó, thực tiễn cũng đã chứng minh tầm quan trọng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế với vai trò chủ đạo, động lực cho sự phát triển mang tính chất bền vững - đây chính là mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu (tăng trưởng về chất) và tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất trong khu vực công nghiệp.

Sự phát triển đột phá của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nằm trong mối quan hệ biện chứng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập kinh tế giúp công nghệp chế biến, chế tạo có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu; ngược lại, phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tạo nền tảng vững chắc để phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ, thu hút đầu tư, đẩy nhanh và sâu hơn tiến trình hội nhập. Nhận thức được mối quan hệ tác động qua lại đó, Nghị quyết số 01-NQ/TU, ngày 16-11-2020, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, “Về phát triển nhanh, bền vững công nghiệp chế biến, chế tạo giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030” - Nghị quyết đầu tiên sau Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XV -  vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo trong tận dụng tối đa hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết là một trong những nhiệm vụ quan trọng cần được quan tâm triển khai thể để sớm hoàn thành các mục tiêu đã đạt ra tại Nghị quyết.

Đến hết tháng 10-2022, Việt Nam đã và đang tham gia đàm phán, ký kết 17 FTA. Trong đó các FTA, như CPTPP, EVFTA, AHKFTA, UKVFTA, RCEP là các FTA thế hệ mới với phạm vi rộng hơn, ngoài cam kết về thương mại, dịch vụ và đầu tư, còn bao gồm cả các thể chế, pháp lý trong các lĩnh vực môi trường, lao động, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ... Các FTA khi thực thi sẽ tác động mạnh mẽ tới phát triển kinh tế cũng như xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng. 

Các hiệp định thương mại tự do đã mang lại cho doanh nghiệp nhiều cơ hội mới khi tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh: 1- Về khía cạnh xuất khẩu: Với các cam kết cắt giảm thuế quan mạnh mẽ mà các FTA thế hệ mới mang lại, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm tăng trưởng nhanh góp phần phát triển kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và nâng cao mức sống của người dân; 2- Về khía cạnh nhập khẩu: mức thuế suất nhập khẩu ưu đãi sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất trong nước mở rộng sản xuất, tiếp cận nguyên liệu nhập khẩu đa dạng và giá rẻ hơn. Đây là yếu tố thuận lợi để giảm chi phí cho doanh nghiệp; 3- Về khía cạnh đầu tư: tiềm năng tăng trưởng của thị trường còn rất lớn, cùng với những ưu đãi từ các FTA mà Việt Nam gia nhập trong thời gian qua đã thu hút nhiều nhà đầu tư lớn từ nước ngoài. Gia tăng thu hút đầu tư là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước học hỏi công nghệ sản xuất mới và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Bên cạnh những cơ hội, các FTA cũng đặt ra các thách thức đối với xuất khẩu hàng hóa, từ đó yêu cầu thay đổi, khắc phục những hạn chế để tận dụng được những cơ hội mang lại và vượt qua những thách thức nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, nhưng thách thức phải kể đến đó là:

Thứ nhất, yêu cầu về yếu tố kỹ thuật, quy tắc xuất xứ hàng hóa. Yếu tố kỹ thuật và quy tắc xuất xứ hàng hóa luôn là thách thức lớn đặt ra cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam khi tham gia các FTA thế hệ mới. Để đạt được yêu cầu này, hàng hóa xuất khẩu phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn cao và phức tạp về kỹ thuật cũng như quy tắc xuất xứ. Yêu cầu này đòi hỏi các ngành sản xuất phải đầu tư phát triển từ nguyên phụ liệu đầu vào cho tới các khâu thiết kế, sản xuất hàng hóa.

Thứ hai, đáp ứng yêu cầu cao về công nghệ. đây vừa là thuận lợi, vừa là khó khăn trong phát triển xuất khẩu hàng hóa, trong bối cảnh nước ta chưa thực sự phát triển về lĩnh vực công nghiệp, năng suất còn thấp, công nghệ chưa cao. Để bảo đảm các quy định về kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, môi trường đối với xuất khẩu hàng hóa cần phải đáp ứng các yêu cầu về công nghệ trong sản xuất; đây là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu hàng hóa.

Thứ ba, các nước nhập khẩu sử dụng biện pháp tự vệ. Khi một nước thành viên FTA nhập khẩu hàng hóa và áp dụng biện pháp tự vệ bằng việc tăng thuế nhập khẩu khi hàng hóa nhập khẩu có thể gây thiệt hại đến việc sản xuất trong nước của nước nhập khẩu. Biện pháp này như một hình thức giúp bảo hộ nền sản xuất trong nước khi tham gia FTA. Khi đó, nước xuất khẩu sẽ chịu thiệt hại về kinh tế do không được hưởng các ưu đãi về thuế suất quy định trong các FTA gây ra những khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa.

Thứ tư, tạo ra sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với doanh nghiệp trong nước. Tham gia các FTA sẽ mở ra cơ hội thu hút nhiều vốn FDI vào các lĩnh vực sản xuất, đây là một thách thức lớn đối với ngành sản xuất trong nước. Các nhà đầu tư nước ngoài có lợi thế về cả tài chính, công nghệ và thị trường. Với những lợi ích thu được từ các cam kết trong FTA, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư vào các ngành sản xuất trong nước. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ dịch chuyển nhà máy từ nhiều quốc gia sang các nước được đầu tư, gây ra áp lực cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước. Khi đó, các sản phẩm hàng hóa trong nước sẽ bị cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm của các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là cạnh tranh về giá và chất lượng sản phẩm.

Thứ năm, đáp ứng các điều kiện về lao động, môi trường. Những tiêu chuẩn về lao động và môi trường ở mức độ cao cũng là một trong những khó khăn lớn đối với xuất khẩu hàng hóa Việt Nam khi tham gia các FTA thế hệ mới. Để tránh cạnh tranh không bình đẳng thông qua việc không bảo đảm các điều kiện làm việc cơ bản cho người lao động, các FTA thế hệ mới thường đưa ra những cam kết riêng về lao động. Tuy nhiên, việc chuyển đổi để đáp ứng các tiêu chuẩn về lao động cần có khoảng thời gian nhất định, do đó đáp ứng quy định về lao động để được hưởng các ưu đãi là một thách thức với các ngành sản xuất hàng hóa ở Quảng Ninh. Ngoài ra, trong các FTA những vấn đề môi trường có liên quan đến thương mại đã được đưa vào thành những nghĩa vụ cam kết mang tính ràng buộc và bắt buộc các nước thành viên phải thực thi thông qua việc sử dụng công cụ về kinh tế. Để thực hiện các điều khoản về môi trường, Việt Nam cần điều chỉnh về chính sách, luật pháp liên quan đến môi trường nhằm khắc phục những bất cập trong việc bảo vệ môi trường khi sản xuất và xuất khẩu hàng hóa.

Trong thời gian vừa qua, với nhiệm vụ là cơ quan chủ trì triển khai thực hiện tuyền truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện kế hoạch, chương trình, các quy định về hội nhập kinh tế quốc tế, Sở Công Thương đã có nhiều hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo nói riêng nhằm tận dụng tối đa hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết, cụ thể: 1- Tổ chức/phối hợp tổ chức các chương trình hội nghị, hội thảo, Cafe doanh nhân nhằm tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu về nội dung liên quan đến việc thực thi, triển khai các quy định trong hoạt động xuất nhập khẩu; 2- Triển khai thực hiện hướng dẫn doanh nghiệp cung cấp thông tin doanh nghiệp, sản phẩm gửi về Sở Công Thương để kết nối với các thị trường nước ngoài thông qua các cơ quan đại diện thương mại của Việt Nam tại nước ngoài; 3- Tham mưu Ủy ban nhân dân ban hành và triển khai các kế hoạch triển khai các hiệp định thương mại tự do, cũng như văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện Chỉ thị số 38/CT-TTg, của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện và khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do đã có hiệu lực...; trong đó tập trung nhiều vào các hoạt động phổ biến, tuyên truyền, hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp. 4- Thường xuyên thông tin về các quy định mới trong hoạt động xuất nhập khẩu; các chương trình tập huấn, bồi dưỡng, các hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường nước ngoài; thực hiện biên soạn, in ấn tờ rơi, tập gấp, mua sách tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế, về các Hiệp định CPTPP, EVFTA...; 5- Bên cạnh đó, các cơ quan truyền thông của tỉnh, các cơ quan hợp tác truyền thông, các văn phòng đại diện, phóng viên thường trú các báo tại Quảng Ninh đã có trên 2.000 lượt tin, bài, ảnh tuyên truyền về nội dung cùng các văn bản quy định chi tiết thi hành các Hiệp định: CPTPP, EVFTA, UKVFTA; các cam kết, các ưu đãi thuế quan mà các hiệp định mang lại; tầm quan trọng và sự tác động của các Hiệp định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; các cơ hội và thách thức của các hiệp định … với nội dung, hình thức đa dạng phong phú.

Nhờ hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ tích cực nêu trên, nhiều doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã tiếp cận và tận dụng được các ưu đãi, cơ hội mà các hiệp định thương mại tự do đã mang lại, một số doanh nghiệp đã được hưởng lợi ích lớn trong hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa phải kể đến như: Công ty TNHH Texhong Ngân Long, Texhong Ngân Hà, Công ty TNHH May Mặc Hoa Lợi Đạt, Công ty TNHH Sợi Hóa học Thế kỷ mới, Công ty TNHH MTV Vina New Tarps, Công ty TNHH Bao Bì Ánh Dương Việt Nam,…

Để tiếp tục tăng cường hiệu quả công tác hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh trong xuất khẩu hàng hóa khi tham gia các FTA thế hệ mới trong thời gian tới, tôi có đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện như sau:

Một là, đề xuất các bộ, ngành Trung ương xây dựng các tiêu chuẩn về kỹ thuật đối với hàng xuất khẩu, ban hành quy định, tiêu chuẩn doanh nghiệp được xuất khẩu một số mặt hàng tạo ra sự liên kết giữa nhà xuất khẩu và nhà sản xuất.

Hai là, điều chỉnh cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và cơ cấu thị trường xuất khẩu phù hợp với nhu cầu của các thị trường nội khối, thị trường khu vực và thế giới. Ngoài ra, việc điều chỉnh cơ cấu hàng hóa và thị trường còn phải phù hợp với chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước và các chiến lược phát triển khác trong giai đoạn hiện nay.

Ba là, thúc đẩy đầu tư vào kết cấu hạ tầng, công nghệ, một trong những yếu tố quan trọng quyết định chất lượng hàng hóa xuất khẩu là trình độ công nghệ trong hoạt động sản xuất. Hiện nay hầu hết công nghệ tại các doanh nghiệp đều cần được đầu tư để nâng cao, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xuất khẩu. Đầu tư vào công nghệ sẽ tạo ra sản phẩm chất lượng đáp ứng các yêu cầu về sản phẩm xuất khẩu, cạnh tranh được với các nước khác khi tham gia các FTA thế hệ mới.

Bốn là, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Tuy có nguồn lao động dồi dào với chi phí nhân công rẻ nhưng Việt Nam nói chung và Quảng Ninh nói riêng vẫn thiếu đội ngũ nhân công có tay nghề, được đào tạo chuyên sâu do đó dẫn đến năng suất lao động thấp. Do đó, trong thời gian tới cần chú trọng phát triển và quản trị nguồn nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng được các yêu cầu đặt ra khi tham gia các FTA thế hệ mới./.