TCCS - Trong bối cảnh toàn cầu đang bước vào giai đoạn phát triển mới - giai đoạn của kinh tế tri thức, chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp lần thứ tư - khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo cùng chuyển đổi số đã trở thành những trụ cột chiến lược, động lực then chốt thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững, đồng thời tái định hình mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Đối với Việt Nam, đây không chỉ là xu hướng khách quan mà còn là lựa chọn mang tính chiến lược nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Tư duy phát triển mới của Đảng ta nhấn mạnh rõ: “Phát triển nhanh và bền vững chủ yếu dựa vào khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”. Trên tinh thần đó, nhiều địa phương đã chủ động triển khai các chương trình, mô hình, chính sách nhằm tận dụng thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số.

1. Trong bức tranh chung về phát triển nhanh và bền vững chủ yếu dựa vào khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, Quảng Ninh nổi lên như một điểm sáng. Từ một tỉnh công nghiệp - du lịch, tỉnh Quảng Ninh đã chuyển mình mạnh mẽ, trở thành hình mẫu về tư duy phát triển dựa trên tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Với tầm nhìn chiến lược, Quảng Ninh sớm xác định chuyển đổi số là một trong ba đột phá chiến lược, đồng thời coi khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là nền tảng để hiện thực hóa mô hình tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và quản trị hiện đại. Nhiều năm liền, Quảng Ninh đứng đầu cả nước về các chỉ số PCI, PAR Index, SIPAS và DTI - minh chứng cho một nền quản trị tiên phong, đổi mới và có năng lực thích ứng cao với yêu cầu của thời đại số. Trước yêu cầu phát triển mới - khi kinh tế số, xã hội số, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn đang trở thành “nguồn tài nguyên chiến lược”, Quảng Ninh vẫn khẳng định vị thế tiên phong trong nhiều lĩnh vực, tiếp tục củng cố, phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để duy trì lợi thế cạnh tranh, hướng tới mục tiêu trở thành tỉnh phát triển kiểu mẫu của miền Bắc và của cả nước.

Trong tiến trình phát triển hiện đại, khoa học và công nghệ được xem là nền tảng của năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh quốc gia. Khoa học và công nghệ không chỉ tạo ra tri thức mới mà còn cung cấp công cụ, phương tiện, phương pháp để con người nhận thức và cải tạo thế giới, làm thay đổi căn bản cấu trúc của nền kinh tế và mô hình quản trị xã hội. Cùng với đó, đổi mới sáng tạo là quá trình chuyển hóa tri thức, ý tưởng và công nghệ thành sản phẩm, quy trình hay mô hình mới mang lại giá trị cao hơn. Đổi mới sáng tạo có thể diễn ra trong mọi lĩnh vực - từ sản xuất, dịch vụ, quản trị công đến đời sống văn hóa và là động lực nội sinh của tăng trưởng bền vững. Tiếp đến là quá trình ứng dụng công nghệ số, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật... để thay đổi cách thức quản lý, sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ, hướng tới mô hình vận hành thông minh, hiệu quả hơn.

Ba yếu tố này tạo nên mối quan hệ biện chứng và gắn bó chặt chẽ: 1) Khoa học - công nghệ cung cấp nền tảng vật chất - kỹ thuật cho đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; 2) Đổi mới sáng tạo là động lực thúc đẩy khoa học – công nghệ phát triển và lan tỏa vào thực tiễn; 3) Chuyển đổi số là môi trường, phương thức để hiện thực hóa giá trị của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong toàn hệ thống xã hội.

Trong bối cảnh hiện nay, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là công cụ hỗ trợ mà đã trở thành trụ cột của mô hình phát triển mới - mô hình “tăng trưởng dựa trên tri thức, dữ liệu và sáng tạo” thay thế cho mô hình “tăng trưởng dựa vào vốn, tài nguyên và lao động giá rẻ”. Đây chính là hướng đi tất yếu của các địa phương muốn bứt phá, trong đó Quảng Ninh đang là một ví dụ tiêu biểu.

Thực tiễn phát triển đất nước cho thấy, nông nghiệp đã giúp Việt Nam thoát khỏi đói nghèo; công nghiệp và vốn đầu tư nước ngoài đã đưa Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao. Tuy nhiên, những động lực truyền thống ấy đang dần tới giới hạn. Câu hỏi đặt ra là: đâu sẽ là động lực mới để đổi mới phương thức quản trị, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu và kiến tạo sự phát triển trong kỷ nguyên mới? Câu trả lời - chính là khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

2. Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã xác định rõ khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đến Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, tư tưởng nhất quán này luôn được khẳng định và phát triển theo hướng ngày càng gắn chặt với yêu cầu đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Cụ thể, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; lấy khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực chính cho tăng trưởng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế” (1). Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị, về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đã đề ra định hướng: “Đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học - công nghệ; đổi mới sáng tạo; phát triển hạ tầng số, kinh tế số, xã hội số; coi đây là cơ hội vàng để đất nước bứt phá”. Quyết định số 569/QĐ-TTg, ngày 31-5-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Về chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030”, nhấn mạnh yêu cầu: “Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia gắn với các trung tâm đổi mới sáng tạo vùng, địa phương”, mở ra cơ hội để các tỉnh, thành chủ động hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của riêng mình. Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 3-6-2020, của Thủ tướng Chính phủ, “về Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” xác định mục tiêu kép: vừa phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; vừa hình thành nền tảng để Việt Nam trở thành quốc gia số. Như vậy, về mặt chủ trương, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đây cũng là cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng để các địa phương, trong đó có tỉnh Quảng Ninh, xây dựng và triển khai các chương trình hành động cụ thể phù hợp với điều kiện, đặc thù và tiềm năng của mình.

Về bối cảnh quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi nhanh chóng mô hình tăng trưởng. Các nền kinh tế phát triển chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình kinh tế tri thức, trong đó dữ liệu và công nghệ số giữ vai trò then chốt. Các quốc gia đều coi khoa học - công nghệ là đòn bẩy để vươn lên trong trật tự thế giới mới, nơi mà trí tuệ nhân tạo và công nghệ số sẽ quyết định vị thế cạnh tranh. Khọc học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã chứng minh vai trò quyết định đối với năng lực cạnh tranh quốc gia.

Theo Báo cáo Global Innovation Index 2024 của WIPO, các quốc gia có chỉ số đổi mới sáng tạo cao (như Thụy Sĩ, Hàn Quốc, Singapore) đồng thời là những nền kinh tế có năng suất lao động và mức độ tự chủ công nghệ hàng đầu thế giới. Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đóng góp tới 30–40% vào tăng trưởng GDP ở các nền kinh tế phát triển. Các mô hình “chính phủ số”, “kinh tế dữ liệu” hay “thành phố thông minh” đang trở thành xu hướng phổ biến, giúp các địa phương quản lý hiệu quả hơn, nâng cao năng lực phục vụ người dân, thúc đẩy phát triển xanh và bền vững. Những kinh nghiệm đó cho thấy, nếu biết kết hợp hài hòa giữa khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, các địa phương hoàn toàn có thể rút ngắn khoảng cách phát triển, tăng tốc đột phá và xây dựng năng lực cạnh tranh bền vững. Đây chính là gợi mở quý giá cho Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng.

Về bối cảnh trong nước, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, trong đó khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là một trong ba khâu đột phá. Các nghị quyết của Trung ương Đảng đã xác định rõ định hướng hoàn thiện thể chế, khuyến khích đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số. Theo công bố Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu - Việt Nam liên tục tăng hạng trong những năm gần đây, hiện nay Việt Nam xếp thứ 44/139 quốc gia và vùng lãnh thổ, đứng thứ 3 ASEAN, vượt Thái Lan sau Singapore và Malaysia(2).

Việt Nam đã đạt được những bước tiến rõ rệt trong phát triển khoa học - công nghệ và chuyển đổi số. Năm 2023, kinh tế số chiếm khoảng 16,5% GDP, thuộc nhóm tăng nhanh nhất Đông Nam Á. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ngày càng mở rộng, với hàng nghìn doanh nghiệp công nghệ, trung tâm đổi mới sáng tạo, quỹ đầu tư mạo hiểm. Chính phủ số và dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 đạt tỷ lệ cao, góp phần hình thành nền hành chính minh bạch, hiệu quả. Tuy nhiên, thách thức vẫn còn lớn: năng lực nội sinh về công nghệ lõi còn yếu; liên kết giữa khoa học - công nghệ với sản xuất, kinh doanh chưa chặt; nhân lực số thiếu và chưa đồng đều. Do đó, để hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, các địa phương cần có mô hình đột phá riêng, tận dụng lợi thế và tiềm năng đặc thù.

3. Đối với Quảng Ninh, tỉnh có nền tảng hạ tầng, quản trị và con người ở mức tiên phong trong cả nước, trước yêu cầu đặt ra là phải kết nối ba yếu tố khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thành một hệ sinh thái phát triển thống nhất, từ đó biến tri thức và công nghệ thành nguồn lực nội sinh - động lực bền vững cho phát triển trong kỷ nguyên mới, tỉnh Quảng Ninh đã có những triển khai cụ thể.

Một là, Quảng Ninh là tỉnh đã sớm chủ động chuyển đổi nhận thức về khoa học - công nghệ và chuyển đổi số từ văn kiện của Đảng thành chương trình, kế hoạch và dự án cụ thể của tỉnh. Quảng Ninh coi chuyển đổi số là một trong ba đột phá chiến lược, sát nhập việc phát triển đô thị thông minh, chính quyền số và kinh tế số vào quy hoạch phát triển vùng. Sự chỉ đạo tập trung, đồng bộ từ cấp tỉnh đến các huyện, thành phố đã tạo điều kiện cho việc triển khai đồng loạt các giải pháp công nghệ trong quản trị công và dịch vụ công. Những nỗ lực này được thể hiện bằng việc thành lập, vận hành sớm Trung tâm Điều hành Thành phố Thông minh đặt tại Ủy ban nhân dân tỉnh để tập hợp dữ liệu, giám sát và điều hành; đây là một bước đi thể hiện chuyển đổi nhận thức thành năng lực điều hành trên thực tế.

Hai là, tỉnh đã xây dựng hạ tầng dữ liệu và nền tảng quản trị số, trong đó tập trung, tích hợp một số ứng dụng. Một trong các điểm mạnh thực tiễn của Quảng Ninh là tỉnh đã chú trọng xây dựng hạ tầng dữ liệu, tích hợp hệ thống thông tin hành chính và dịch vụ công vào một nền tảng điều hành tập trung. Việc triển khai trung tâm điều hành thông minh cho phép tích hợp dữ liệu giao thông, an ninh trật tự, du lịch, môi trường, y tế và dịch vụ công, từ đó hỗ trợ ra quyết định nhanh chóng, minh bạch và có cơ sở dữ liệu để hoạch định chính sách. Hệ thống vận hành thí điểm từ 2019 đã cho thấy hiệu quả bước đầu trong việc theo dõi, phối hợp và điều hành liên ngành.

Ba là, kết quả đo lường quản trị và môi trường kinh doanh. Kết quả thực tiễn của quá trình chuyển đổi thể hiện rõ trên các chỉ số đánh giá quản trị và môi trường kinh doanh. Quảng Ninh là tỉnh đứng trong nhóm dẫn đầu cả nước về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), duy trì vị trí cao (á quân/những thứ hạng đầu trong các báo cáo gần đây), đồng thời các chỉ số đo lường cải cách hành chính như PAR Index, SIPAS, DDCI, DTI của tỉnh và của một số địa phương trực thuộc cũng ghi nhận mức cải thiện rõ rệt (ví dụ: PAR Index, DTI của TP Hạ Long đạt mức cao và được công bố trong báo cáo tỉnh). Những con số này là bằng chứng cho thấy chuyển đổi số và cải cách hành chính công đã góp phần nâng cao chất lượng quản trị, cải thiện môi trường đầu tư - hai yếu tố quyết định hấp dẫn nguồn lực đầu tư và phát triển doanh nghiệp địa phương.

Bốn là, ứng dụng công nghệ trong các ngành chủ lực, như: du lịch, cảng biển, quản lý tài nguyên. Tỉnh Quảng Ninh đã ứng dụng công nghệ số vào những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Về du lịch thông minh, tỉnh đã quản lý lượt khách, bán vé, quản lý dịch vụ bằng nền tảng số; tận dụng dữ liệu để điều phối lưu lượng, nâng cao trải nghiệm du khách. Về logistics, cảng biển và năng lượng, việc thực hiện cơ chế phối hợp dữ liệu cảng, hải quan, vận tải đã giúp tỉnh tăng thông lượng, giảm chi phí thời gian và thủ tục không cần thiết. Về quản lý tài nguyên và môi trường, tỉnh đã giám sát chất lượng môi trường, tài nguyên đất đai và khoáng sản qua hệ thống dữ liệu liên tục, hỗ trợ xử lý vi phạm và hoạch định sử dụng bền vững. Các ứng dụng này không chỉ tối ưu hóa hiệu quả hoạt động mà còn cải thiện minh bạch, giảm thiểu chi phí giao dịch giữa các chủ thể trong nền kinh tế - điều căn bản để chuyển đổi lợi thế tài nguyên thành lợi thế giá trị gia tăng.

Năm là, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Tỉnh Quảng Ninh đã bắt đầu tạo dựng hệ sinh thái: cơ chế khuyến khích doanh nghiệp công nghệ, hợp tác với các đối tác tư nhân để phát triển giải pháp, hỗ trợ thí điểm công nghệ (ví dụ thử nghiệm AI trong trung tâm điều hành). Tuy nhiên, do đây là lĩnh vực mới nên năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp trong tỉnh chưa mạnh, quỹ hỗ trợ sáng tạo địa phương còn hạn chế, vì vậy việc liên kết trường - viện - doanh nghiệp cần được tăng tốc để chuyển hóa tri thức thành sản phẩm có giá trị thị trường. Đó là thách thức cần giải quyết để Quảng Ninh chuyển từ “ứng dụng công nghệ” sang “sản xuất công nghệ”.

Sáu là, nhân lực số và văn hóa sáng tạo. Việc triển khai hạ tầng số đặt ra yêu cầu lớn về nhân lực số và năng lực quản trị dữ liệu. Quảng Ninh đã thực hiện nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức về kỹ năng số, tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu dài hạn cần chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao, hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu để đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu (AI, data science, an ninh mạng, quản trị đô thị thông minh). Đầu tư vào con người là bước then chốt để đảm bảo tính bền vững của chuyển đổi.

Bảy là, những rào cản kỹ thuật - pháp lý - liên kết cần khắc phục. Thực tiễn cho thấy bên cạnh những mặt được, còn một số rào cản tồn tại. Công nghệ lõi và năng lực làm chủ: nhiều giải pháp vẫn phụ thuộc vào đơn vị cung cấp bên ngoài; ngành R&D nội tỉnh chưa tạo ra nhiều công nghệ lõi. Dữ liệu và chia sẻ dữ liệu: việc định danh, chuẩn hóa và chia sẻ dữ liệu liên ngành vẫn gặp chồng chéo về pháp lý và quy trình. Liên kết vùng và liên kết nhà nước - doanh nghiệp - viện, trường: cần cơ chế rõ ràng, ưu đãi để khuyến khích liên kết và thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Những tồn tại này nếu không được khắc phục sẽ giới hạn khả năng chuyển đổi số đi sâu vào sản xuất và đổi mới công nghệ nội sinh, từ đó ảnh hưởng đến tốc độ chuyển dịch kinh tế theo chiều sâu.

Tám là, tổng kết thực tiễn - Quảng Ninh là “mẫu hình vận hành” nhưng phải chuyển sang “mẫu hình sáng tạo”. Tỉnh Quảng Ninh đã xây dựng được một mô hình vận hành chuyển đổi số sớm, có tính hệ thống: chiến lược rõ, hạ tầng điều hành tích hợp, ứng dụng thiết thực trong quản trị và dịch vụ và kết quả đo lường trên các chỉ số quản trị, môi trường kinh doanh là bằng chứng thuyết phục. Tuy nhiên, để trở thành một mẫu hình sáng tạo thực thụ (innovation-driven), Quảng Ninh cần chuyển từ “ứng dụng/triển khai” sang “sản xuất/đổi mới nội sinh” - tức là tăng cường R&D, quỹ đổi mới, cơ chế thị trường cho sáng tạo và thu hút nhân lực công nghệ cao.

4. Trong giai đoạn hiện nay, tỉnh Quảng Ninh không chỉ đang thực hiện chuyển đổi số, mà đang tiến hành một quá trình tái cấu trúc căn bản mô hình phát triển - từ nền kinh tế dựa vào tài nguyên, công nghiệp nặng và du lịch, sang nền kinh tế tri thức, đổi mới sáng tạo và giá trị dữ liệu. Theo các chuyên gia đầu ngành về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, động lực phát triển mới của tỉnh Quảng Ninh không còn nằm ở việc “ứng dụng công nghệ” đơn lẻ, mà ở khả năng tạo lập một hệ sinh thái tri thức và đổi mới sáng tạo có sức lan tỏa. Trong đó, chuyển đổi số không chỉ là công cụ quản trị hiện đại mà là hạ tầng chiến lược của tăng trưởng, còn đổi mới sáng tạo là phương thức tạo ra giá trị mới cho nền kinh tế địa phương.

Quảng Ninh hiện đã đạt trình độ dẫn đầu cả nước ở tầng hạ tầng số và quản trị công nghệ - với Trung tâm điều hành thông minh, nền tảng dữ liệu dùng chung và hệ thống chỉ số PCI, DTI, PAR luôn ở nhóm cao nhất. Tuy nhiên, ở tầng sâu hơn của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tỉnh cần tiếp tục phát triển năng lực sáng tạo nội sinh - tức khả năng sinh ra tri thức, công nghệ và sản phẩm do chính con người, viện trường, doanh nghiệp Quảng Ninh làm chủ. Đây là thước đo thực chất của một nền kinh tế sáng tạo. Các chuyên gia nhận định thành công của Quảng Ninh sẽ không được đo bằng số lượng dự án hay ứng dụng công nghệ mới, mà bằng khả năng biến tri thức và dữ liệu thành tài sản phát triển, và khả năng kiến tạo thể chế khuyến khích sáng tạo.” Điều này đòi hỏi sự chuyển dịch chiến lược từ ‘chính quyền số’ sang ‘nền kinh tế số sáng tạo’, nơi dữ liệu được coi là tài nguyên chiến lược, khoa học - công nghệ là nền tảng tri thức, còn đổi mới sáng tạo trở thành phương thức chủ đạo của tăng trưởng.

Với vị trí chiến lược vùng duyên hải Bắc Bộ, tỉnh Quảng Ninh có thể trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo biển - công nghiệp - du lịch thông minh của miền Bắc, kết nối Hải Phòng - Hà Nội - Bắc Giang trong một hành lang tri thức và công nghệ. Đó là con đường để Quảng Ninh không chỉ “đi đầu trong chuyển đổi số”, mà còn dẫn dắt sự chuyển hóa mô hình phát triển của cả vùng trong kỷ nguyên kinh tế tri thức. Việc đi đầu trong khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chính là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Khoa học cung cấp nền tảng tri thức mới; công nghệ chuyển hóa tri thức thành công cụ và giải pháp; đổi mới sáng tạo biến các công cụ, tri thức ấy thành ý tưởng và mô hình ứng dụng; còn chuyển đổi số kiến tạo môi trường, nền tảng và công cụ để hiện thực hóa, nhân rộng và phổ cập các sản phẩm, dịch vụ mới. Bộ ba này cùng với chính sách bảo hộ hữu trí tuệ sẽ là bệ phóng để phát triển đột phá cho nền kinh tế của tỉnh. Chính vì vậy, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là nền tảng, mà còn là động lực chiến lược giúp tỉnh Quảng Ninh bước vào kỷ nguyên phát triển bứt phá, khẳng định vai trò đầu tàu của kinh tế vùng trong tiến trình phát triển đất nước và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.

Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra, tỉnh Quảng Ninh cần thực hiện một số nội dung, giải pháp cụ thể:

Thứ nhất, tích cực thay đổi tư duy và phương pháp, quyết tâm quyết liệt hơn nữa, xoá bỏ tâm lý ngại thay đổi thói quen để xây dựng chính quyền số phục vụ nhân dân và phát triển kinh tế số. Đầu tư nâng cấp trang thiết bị cho chính quyền 2 cấp đảm bảo điều kiện vận hành chính quyền số, thủ tục hành chính trực tuyến toàn trình và điều kiện làm việc trong môi trường số của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là ở cơ sở.

Thứ hai, triển khai cụ thể hóa ngay các chính sách vượt trội cho khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đồng thời hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ và làm tốt công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, từng bước hình thành cơ chế và vun đắp văn hoá chấp nhận rủi ro, tôn trọng thất bại có kiểm soát.

Thứ ba, sớm hoàn thành kiến trúc dữ liệu và xây dựng trung tâm dữ liệu lớn, bảo đảm an toàn thông tin và kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia. Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) và coi AI như hạ tầng chiến lược, ngang hàng với điện, viễn thông hay internet. Kiên định mục tiêu xây dựng chính quyền số 4.0 hướng về sự hài lòng và lợi ích thiết thực của nhân dân và doanh nghiệp

Thứ tư, đổi mới đào tạo nhân lực theo hướng gắn với yêu cầu chính quyền số, nhu cầu doanh nghiệp và thị trường, phải làm cho liên kết 3 nhà thực sự chặt chẽ và phát huy sức mạnh tổng hợp. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo môi trường, định hướng chiến lược; Nhà trường là trung tâm nghiên cứu, đổi mới tri thức; còn doanh nghiệp đảm nhận vai trò ứng dụng và chuyển hóa kết quả nghiên cứu vào sản xuất - kinh doanh. Triển khai hợp tác quốc tế sâu rộng về chương trình đào tạo nhân lực công nghệ mới. Thu hút chuyên gia giỏi và tuyển chọn các tổng công trình sư, kiến trúc sư trưởng cho các lĩnh vực, bảo đảm điều kiện làm việc tốt nhất cho họ để họ toàn tâm cống hiến cho địa phương.

Thứ năm, công tác truyền thông luôn song hành với việc triển khai các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và tạo sự đồng thuận trong hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Tổ chức các sân chơi sáng tạo, khoa học - công nghệ và tôn vinh các cá nhân tổ chức tiêu biểu để lan tỏa tinh thần sáng tạo nhằm khích lệ phong trào bình dân học vụ số và xây dựng công dân số, thủ đô số. Tiếp tục chủ động tham gia mạng lưới nghiên cứu phát triển và sáng tạo toàn cầu, hợp tác với các trung tâm công nghệ hàng đầu thế giới, thu hút và chuyển giao công nghệ tiên tiến, khẳng định vị thế là trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu khu vực.

Nhìn lại lịch sử, mỗi bước phát triển của nhân loại đều gắn với những đột phá công nghệ, như: sự ra đời của máy hơi nước trong Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất; điện khí hóa trong lần thứ hai; công nghệ thông tin trong lần thứ ba; ngày nay là trí tuệ nhân tạo trong lần thứ tư và rất có thể hình hài của Cách mạng công nghiệp lần thứ năm đang dần lộ diện đó là công nghệ lượng tử (3). Thực tiễn đã chứng minh, Nhật Bản phục hồi thần kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai nhờ công nghiệp điện tử; Hàn Quốc - với kỳ tích sông Hàn đã bứt phá với chiến lược công nghiệp hóa hướng ngoại; Singapore từ một đảo quốc nghèo đã vươn lên trở thành trung tâm công nghệ và tài chính của châu Á.

Nhìn lại Việt Nam, chúng ta thấy rằng Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” được ban hành mở ra một cuộc cách mạng thực sự trong tư duy lãnh đạo và quản lý lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nếu như trước đây, “Khoán 10” được xem là bước đột phá mạnh mẽ trong tư duy quản lý kinh tế nông nghiệp, xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của thực tiễn sản xuất, thì Nghị quyết số 57-NQ/TW đi trước thực tiễn về cả tầm nhìn chiến lược lẫn tư duy đổi mới. Nghị quyết không chỉ giải quyết những vấn đề hiện hữu, mà còn chủ động kiến tạo tương lai, mở đường cho những mô hình sản xuất mới, đón đầu những xu thế phát triển mà chính lực lượng sản xuất xã hội còn đang trong quá trình hình thành và hoàn thiện. Do vậy, để Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị thực sự đi vào cuộc sống, mỗi chúng phải nỗ lực và quyết tâm vượt bậc. Sự chuyển mình không bắt đầu từ công nghệ hay thể chế mà chính từ sự dũng cảm thay đổi từ tư duy đến hành động của mỗi chúng ta ngay hôm nay, ngay bây giờ và kiên định mục tiêu đó.

Nghị quyết số 57-NQ/TW chính là kim chỉ nam, là ngọn đuốc soi đường cho tỉnh Quảng Ninh trong hành trình phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Với quyết tâm cao nhất của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của nhân dân và đồng hành của đội ngũ các chuyên gia, nhà khoa học, cộng đồng doanh nghiệp và sự tham gia tích cực của lực lượng lao động sáng tạo trẻ, tỉnh Quảng Ninh sẽ vươn lên trở thành trung tâm khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo hàng đầu của cả nước, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, hùng cường vào năm 2045./.

------------

(1) Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tập I, tr. 120, 121

(2) Global Innovation Index 2025 Innovation at a Crossroads (tạm dịch: Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Toàn cầu 2025: Đổi mới sáng tạo trước bước ngoặt mới của thời đại, (tạm dịch: Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Toàn cầu 2025: Đổi mới sáng tạo trước bước ngoặt mới của thời đại), https://www.wipo.int/web-publications/global-innovation-index-2025/assets/80937/global-innovation-index-2025-en.pdf?utm

(3)European Commission - “Industry 5.0 - Towards a sustainable, human-centric and resilient European industry” (2021) (tạm dịch: “Công nghiệp 5.0 - Hướng tới một nền công nghiệp châu Âu bền vững, lấy con người làm trung tâm và có khả năng chống chịu”, https://research-and-innovation.ec.europa.eu/research-area/industrial-research-and-innovation/industry-50_en?utm_source=chatgpt.com