Tín dụng chính sách xã hội giúp người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo
TCCS - Thời gian qua, các chương trình tín dụng chính sách xã hội dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã đạt được hiệu quả thiết thực, góp phần giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội, ổn định an ninh, trật tự tại địa phương.
Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc từ thời kỳ đổi mới đất nước đến nay được thể hiện thông qua văn kiện các kỳ đại hội và các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề của Đảng, được ban hành cụ thể trong từng nhiệm kỳ, từng giai đoạn, với nội dung cơ bản thống nhất, đó là: Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với những nội dung trên, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc đã mang tính toàn diện trên các lĩnh vực và phủ kín địa bàn vùng dân tộc và miềm núi. Theo đó, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc trong thời kỳ đổi mới đã được thể chế hóa trong nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông tư... của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do có chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị nên trong những năm qua, công tác dân tộc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tính riêng trong giai đoạn 2016 - 2020, vùng đồng bào dân tộc và niềm núi có những chuyển biến quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Trong phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới đạt kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hằng năm đạt 7%/năm; tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc và miền núi giảm 4%/năm; các huyện nghèo giảm 4% - 5%, có nơi giảm trên 5%; tỷ lệ hộ cận nghèo toàn vùng giảm 1,2%; đã có 22 huyện, 125 xã, 1.298 thôn ra khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn; có 1.052 xã (chiếm 22,3%) đạt chuẩn nông thôn mới, có 27 huyện (chiếm 6%) đạt chuẩn nông thôn mới.
Kết cấu hạ tầng cơ sở được đầu tư đồng bộ, hệ thống giao thông từ tỉnh đến trung tâm các huyện đã được rải nhựa hoặc bê-tông hoá 100%; các xã có đường ô-tô đến trung tâm đạt 98,4%; tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số được sử dụng điện lưới quốc gia đạt 96,7%; 100% số xã có trường tiểu học, trung học cơ sở; 99,7% số xã có trường mầm non, mẫu giáo; 99,5% số xã có trạm y tế; 76,7% số thôn có nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng; tỷ lệ thôn có đường giao thông được kiên cố tăng 16,7% so với năm 2015.
Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề ngày càng phát triển, tỷ lệ người đủ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết tiếng phổ thông tăng 1,7%; tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học tăng 8%, trung học cơ sở tăng 9%, trung học phổ thông tăng 14,7%. Đến hết năm 2020, cả nước đã xây dựng được 316 trường phổ thông dân tộc nội trú, 1.097 trường phổ thông dân tộc bán trú, 4 trường và 3 khoa dự bị đại học dân tộc. Bên cạnh đó, công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động dân tộc thiểu số đạt được một số kết quả quan trọng.
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được chú trọng. Đến hết năm 2020, vùng dân tộc và miền núi có 99,5% số xã có trạm y tế; trong đó, có 83,5% số trạm y tế đạt chuẩn quốc gia (tăng gấp 2 lần so với năm 2015); số trạm y tế có bác sỹ chiếm 77,2%. Bên cạnh đó, có 93% số người dân tộc thiểu số được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Ngoài ra, tỷ lệ tảo hôn giảm 4,7%; hôn nhân cận huyết giảm 0,9%.
Trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa cũng đạt được kết quả đáng ghi nhận; trong đó, tiếp tục công nhận 4 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di tích lịch sử văn hóa quốc gia; phong tặng, truy tặng 559 nghệ nhân dân gian là người dân tộc thiểu số; hàng năm đã tổ chức tốt ngày hội văn hóa của các dân tộc thiểu số … có 95% số xã được phủ sóng phát thanh truyền hình; phát sóng được 22 thứ tiếng dân tộc, phù hợp với từng vùng, miền. Ngoài ra, đến hết năm 2020, xây dựng được hơn 16.000 điểm bưu điện văn hóa xã; có hàng triệu tờ báo được cấp không thu tiền.
Công tác phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số luôn được quan tâm. Tính đến hết năm 2020, tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14,5%; trong đó, giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp chiếm 17,2%. Cấp ủy viên là người dân tộc thiểu số ở các đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2020 - 2025 đạt 11,68%, cao hơn nhiệm kỳ trước (2015 - 2020) là 0,72%; ủy viên ban thường vụ đạt tỷ lệ 11,86%, cao hơn nhiệm kỳ trước (2015 - 2020) là 0,51%; bí thư cấp ủy người dân tộc thiểu số có 9,23%, cao hơn nhiệm kỳ trước (2015 - 2020) là 1,54%. Trong đó, tỷ lệ đảng viên là người dân tộc thiểu số tăng từ 10,94% năm 2012 lên 11,98% năm 2019.
Bên cạnh đó, công tác quốc phòng, an ninh luôn được củng cố và tăng cường, trong đó, đã chủ động phát hiện, giải quyết kịp thời các vụ việc, không để xảy ra các “điểm nóng” về an ninh, trật tự trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những hạn chế, yếu kém, đó là: Kết quả thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa đạt được như mong muốn. So với mặt bằng chung của cả nước, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn thuộc diện khó khăn nhất. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo, tái nghèo còn cao; khoảng cách so với vùng phát triển có xu hướng gia tăng; khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội còn thấp; tình trạng di cư tự phát chưa được giải quyết hiệu quả; cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số nhiều nơi chưa đạt tỷ lệ theo quy định; hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan ở một số nơi chậm được khắc phục; vẫn còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp về an ninh, trật tự.
Những hạn chế, yếu kém trên được xác định có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả khách quan và chủ quan. Đó là, điểm xuất phát của vùng đồng bào dân tộc và miền núi còn thấp; địa hình hiểm trở, chia cắt, giao thông khó khăn, khí hậu khắc nghiệt; thiên tai, bão lũ xảy ra thường xuyên; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, chính quyền, nhận thức chưa đầy đủ về công tác dân tộc; công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa thực sự quyết liệt; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành chưa chặt chẽ, đồng bộ; một số chính sách còn chồng chéo, nguồn lực đầu tư còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn có tư tưởng bằng lòng với hiện tại, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên.
Tín dụng chính sách xã hội “cánh cửa” giúp người dân vùng dân tộc thiểu số thoát nghèo bền vững
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi, nâng cao dần mức sống của đồng bào các dân tộc, trong những năm đổi mới vừa qua và nhất là giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên đối với đồng bào dân tộc thiểu số một cách đồng bộ và toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Đồng thời, đã triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án đầu tư phát triển trên địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân tộc tập trung chủ yếu vào lĩnh vực giảm nghèo, phát triển sản xuất trong nông - lâm nghiệp - thủy sản; giáo dục - đào tạo, văn hóa nhằm giải quyết khó khăn của hộ nghèo ở vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, như: Chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, phát triển sản xuất và ổn định đời sống cho người dân tộc thiểu số nghèo, hộ nghèo vùng đặc biệt khó khăn, ổn định cuộc sống cho người dân tộc thiểu số di cư tự phát, phát triển kinh tế - xã hội cho các dân tộc thiểu số rất ít người; phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số; tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật … và một trong những chủ trương, chính sách đó là hỗ trợ nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi phát triển kinh tế.
Hiện nay, nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã được “phủ sóng” đến 100% số xã, phường, thị trấn trên toàn quốc, trong đó tập trung ưu tiên cho các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Hầu hết số hộ đồng bào dân tộc thiểu số được thụ hưởng chính sách xã hội, đặc biệt có hộ vay vốn từ 2 đến 3 chương trình tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống và thoát nghèo bền vững.
Theo Ngân hàng Chính sách xã hội, hiện có trên 1,4 triệu khách hàng là hộ đồng bào dân tộc thiểu số đang thụ hưởng hầu hết các chương trình tín dụng chính sách với tổng dư nợ đạt trên 56.000 tỷ đồng, chiếm 24,8% tổng dư nợ. Dư nợ bình quân một hộ đồng bào dân tộc thiểu số đạt 39,3 triệu đồng, trong khi bình quân chung toàn quốc là 35 triệu đồng. Dư nợ tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt 114.622 tỷ đồng, chiếm 50,7% tổng dư nợ của Ngân hàng Chính sách xã hội, với gần 3,9 triệu món vay của trên 3,1 triệu khách hàng đang còn dư nợ. Dư nợ bình quân một xã tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt 21,7 tỷ đồng.
Vốn cho vay hộ nghèo dân tộc thiểu số những năm qua chủ yếu đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi trâu, bò, xây dựng, sửa chữa nhà ở, công trình nước sạch, vệ sinh môi trường, hỗ trợ kinh phí học tập... đã góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống, làm chuyển biến nhận thức, cách thức làm ăn cho hàng triệu lượt hộ, giúp cho hộ nghèo, đặc biệt là hộ dân tại huyện nghèo, vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa, hộ đồng bào dân tộc thiểu số từng bước quen dần với cơ chế thị trường. Hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn đã mạnh dạn vay vốn để sản xuất, kinh doanh, từng bước vươn lên phát triển kinh tế gia đình, làm giàu chính đáng. Tín dụng chính sách do Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện còn là một trong những biện pháp quan trọng giảm tình trạng tín dụng “đen” ở vùng dân tộc thiểu số.
Các chương trình cho vay đạt được hiệu quả thiết thực, góp phần giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội, ổn định an ninh chính trị tại các địa phương. Đặc biệt, bảo đảm an sinh xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, vùng biên giới, giúp đồng bào các dân tộc ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và cùng chung sức xây dựng, phát triển đất nước.
Gần 20 năm qua, tín dụng chính sách góp phần giúp đồng bào dân tộc thiểu số phát triển sản xuất, nâng cao đời sống và thoát nghèo; trong đó có trên 2 triệu hộ thoát nghèo, thu hút và tạo việc làm cho trên 165 nghìn lao động. Đồng thời, trên 211 nghìn học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn là con em đồng bào dân tộc thiểu số được vay vốn học tập; xây dựng trên 1,4 triệu công trình nước sạch và vệ sinh môi trường cũng như trên 216 nghìn căn nhà ở cho hộ đồng bào.
Quy mô dư nợ đối với đồng bào dân tộc thiểu số tăng trưởng ấn tượng thể hiện nguồn vốn tín dụng được đưa tới tay hộ dân tộc thiểu số nghèo ngày càng nhiều trong cả nước. Qua đó, giúp đồng bào phát huy nội lực, thế mạnh của địa phương để từng bước vươn lên thoát nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển kinh tế. Mặc dù quy mô tín dụng tăng, nhưng chất lượng tín dụng vẫn được đảm bảo, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, luôn duy trì ở mức dưới 2%. Điều đó cho thấy khả năng sử dụng vốn của đồng bào dân tộc thiểu số tương đối hiệu quả, vốn vay luôn được hoàn trả đúng hạn.
Mặc dù kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có bước phát triển mạnh trong những năm gần đây, nhưng vẫn là vùng khó khăn nhất và là “lõi nghèo của cả nước”. Trong giai đoạn 2021 - 2030, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục quan tâm với các chủ trương, chính sách tập trung phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; trong đó có chính sách tín dụng ưu đãi. Trong giai đoạn mới, chính sách tín dụng xã hội đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi cần tiếp tục đổi mới và mở rộng theo hướng tăng định mức, mở rộng đối tượng cho vay liên quan đến các dự án sản xuất - kinh doanh, tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số./.
Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Đăk Lắk đưa nguồn vốn chính sách đến các đối tượng thụ hưởng  (02/12/2021)
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính: Cần tìm ra động lực mới cho Đà Nẵng phát triển  (02/12/2021)
Giảm lãi suất với tín dụng chính sách tại Ngân hàng Chính sách xã hội  (28/11/2021)
Nhiều công trình, hoạt động dầu khí rộn ràng cán đích  (25/11/2021)
Petrovietnam - Sáu thập kỷ hướng về phía trước  (22/11/2021)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Những vấn đề môi trường cấp bách hiện nay: Thực trạng và giải pháp