TCCSĐT - Quản lý đảng viên là một nội dung, biện pháp cơ bản, quan trọng trong công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, góp phần nâng cao chất lượng đảng viên. Làm tốt biện pháp tự quản lý của đảng viên, làm cho mỗi đảng viên có bản lĩnh vững vàng trong mọi tình huống là góp phần tích cực vào việc chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong tổ chức đảng.

Đảng viên thuộc các chi bộ đại đội học viên ở các Trường Sĩ quan Quân đội là những quân nhân được tuyển chọn từ nhiều nguồn khác nhau, đào tạo trở thành sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Với đặc điểm chung là độ tuổi còn trẻ, có kiến thức văn hóa, năng động, sáng tạo, đa số thích khẳng định mình, có ý chí phấn đấu trở thành cán bộ, sĩ quan,... Tuy nhiên, đa số chưa có thực tiễn công tác, có việc suy nghĩ và hành động còn nóng vội, dễ bị kích động, thiếu bản lĩnh trong xử lý các tình huống khó khăn, phức tạp,... Những năm qua, công tác quản lý đảng viên ở các chi bộ đại đội học viên của các Trường Sĩ quan Quân đội đã có nhiều chuyển biến rõ nét, có nhiều nội dung, biện pháp thiết thực, hiệu quả, một trong những biện pháp được cấp ủy, chỉ huy các cấp chú trọng là: Đề cao trách nhiệm tự quản lý của đảng viên, đây là biện pháp rất quan trọng quyết định đến chất lượng công tác quản lý đảng viên, là biện pháp trực tiếp chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong đội ngũ đảng viên. Nhờ phát huy vai trò tự quản lý của đảng viên học viên mà chất lượng công tác quản lý đảng viên ở các chi bộ chuyển biến rõ nét, phát triển theo hướng tích cực, không có đảng viên “tự diễn biến, tự chuyển hóa”. Tính riêng từ năm 2013 đến năm 2015 qua đánh giá chất lượng đảng viên của chi bộ đơn vị học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị, số đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tăng từ 10,42% lên 13,68%, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ giảm từ 11,5% suống 9,45%, Trường Sĩ quan Lục quân 1 số đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tăng từ 11,42% lên 12,84%, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ giảm từ 10,5% xuống 8,35%, không có đảng viên thoái thác nhiệm vụ hoặc vi phạm các tệ nạn phải thải loại (1).

Để tiếp tục phát huy vai trò tự quản lý của đảng viên là học viên ở các chi bộ đại đội, góp phần chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa” cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ cơ bản sau đây:

Một là, thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm tự giác trong tự quản lý, tự rèn luyện của mỗi đảng viên, học viên

Chi ủy, chi bộ, cán bộ chủ trì đại đội cần bám sát chủ trương, kế hoạch của cấp trên, chủ động tiến hành thường xuyên có hiệu quả các hoạt động giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, làm cho đảng viên thấy được vai trò, tầm quan trọng, sự cần thiết phải tự tu dưỡng, tự rèn luyện, tự quản lý, tự ghép mình vào khuôn khổ của tổ chức. Giáo dục, thực hiện tốt Chỉ thị 03-CT/TW, của Bộ Chính trị, về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện nghị quyết Trung ương 4 khóa XI Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay vào nhiệm vụ thực tiễn của đảng viên. Công tác giáo dục phải đạt đến độ làm cho việc tự rèn luyện, tự quản lý của đảng viên trở thành nhu cầu không thể thiếu, trở thành thói quen trong sinh hoạt học tập của đảng viên. Chi ủy, chi bộ cần thường xuyên theo dõi, đồng hành, kiểm tra đánh giá chính xác kết quả thực hiện nhiệm vụ của từng người, cả đội ngũ để có biện pháp chỉ đạo, uốn nắn kịp thời; đồng thời, phát huy vai trò giúp đỡ của đồng chí, đồng đội trong tự kiểm tra, tự đánh giá những điểm mạnh, điểm hạn chế, đối chiếu với tiêu chuẩn, yêu cầu nhiệm vụ của đảng viên để có hướng phấn đấu tiếp theo.

Hai là, thực hiện nghiêm chế độ, nền nếp quy định trong sinh hoạt, học tập, rèn luyện, quản lý đảng viên, học viên

Đảng viên đồng thời là học viên, quân nhân trong đơn vị chịu sự quản lý của cả tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy bằng Điều lệnh, Điều lệ, các chế độ, quy định trong quân đội và các quy định của đơn vị. Điều lệnh, điều lệ, các quy định được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp và Pháp luật của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chức năng, nhiệm vụ của quân đội, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong quản lý, duy trì kỷ luật, bảo đảm sự tập trung thống nhất; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, luôn sẵn sàng chiến đấu cao và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Theo đó, việc thực hiện nghiêm chế độ, nền nếp quy định trong sinh hoạt, học tập, rèn luyện, quản lý đảng viên là yếu tố trực tiếp để quản lý chặt chẽ đội ngũ đảng viên và mỗi đảng viên tự quản lý tốt chính mình. Chi ủy, chi bộ, cán bộ chủ trì các cấp cần thường xuyên lãnh đạo và tổ chức duy trì nghiêm túc việc thực hiện pháp luật của Nhà nước; kỷ luật quân đội; các quy định của đơn vị; động viên đảng viên thường xuyên tự quán triệt các nội dung được giáo dục, coi đó là phương châm để hành động, trên cơ sở đó mỗi đảng viên đề cao ý thức, trách nhiệm tự giác chấp hành và tự giác trong tự quản lý. Quan tâm động viên, xây dựng môi trường thuận lợi để đội ngũ đảng viên nâng cao hiệu quả tự quản lý. Bên cạnh việc cố gắng nỗ lực, phấn đấu của mỗi cá nhân đảng viên trong tự quản lý; việc quan tâm, xây dựng môi trường cho đảng viên tự quản lý luôn có ý nghĩa rất quan trọng.

Ba là, mỗi đảng viên là học viên phải thường xuyên quán triệt đầy đủ, sâu sắc nghị quyết, quy định của Đảng về việc tự quản lý, tự học tập, tự rèn luyện

Đây là căn cứ, nội dung, động cơ để đảng viên tự quản lý, tự học tập, tự rèn luyện nhằm nâng cao trình độ mọi mặt, từ đó nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động, tích cực trong tự quản lý, tự giác phấn đấu vươn lên. Bên cạnh đó, mỗi đảng viên phải đề cao tính tự trọng, danh dự của người cán bộ, đảng viên; mỗi đảng viên phải tự xây dựng động cơ, thái độ, trách nhiệm đúng đắn, luôn khép mình vào tổ chức; phải tự quyết định trong suy nghĩ và hành động, dám chịu trách nhiệm, cam kết trước chi uỷ, chi bộ, chỉ huy đơn vị về mức độ chuyển biến tiến bộ trong công tác, trong học tập, rèn luyện, tu dưỡng của bản thân. Thông qua qua tự học tập, tự nghiên cứu; thông qua hoạt động thực tiễn công tác để từng bước quán triệt đầy đủ, sâu sắc, các nghị quyết, quy định tạo sự chuyển biến rõ nét trong việc tự quản lý của đảng viên.

Bốn là, từng đảng viên, học viên phải nhận thức đầy đủ và toàn diện vấn đề quản lý đảng viên, từ đó xác định nội dung, hình thức, biện pháp tự quản lý, tự rèn luyện phù hợp

Từ nhận thức đầy đủ, đảng viên có tư tưởng kiên định vững vàng, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong chấp hành kỷ luật đảng,... thấy rõ trách nhiệm của mình trong tiến hành các hoạt động quản lý, tự quản lý, vai trò trách nhiệm đối với tổ chức, tự hoàn thiện bản thân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tự quản lý, tự rèn luyện của đảng viên ở các chi bộ đại đội phải được tiến hành thường xuyên và chặt chẽ. Việc tự xác định những nội dung, hình thức, biện pháp tự quản lý, tự rèn luyện thể hiện ý thức tự giác cao, tính chủ động, tích cực, khoa học trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện của đảng viên. Căn cứ vào nghị quyết của chi bộ, kế hoạch công tác của chỉ huy đơn vị, nhiệm vụ, tiêu chuẩn của học viên, đảng viên, mỗi đảng viên phải xác định những nội dung, hình thức, biện pháp tự quản lý phù hợp. Nội dung, hình thức, biện pháp tự quản lý của mỗi đảng viên tùy theo quy định của chi bộ, có thể được xác định chung với kế hoạch tự học tập, tự giáo dục, tự rèn luyện. Cần căn cứ vào tiêu chuẩn chung của cán bộ, đảng viên được Đảng quy định và sự cụ thể hóa của đơn vị để xác định nội dung; trong đó tập trung những nội dung về hoàn thiện nhân cách người cán bộ, đảng viên theo mục tiêu yêu cầu đào tạo như chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, xu hướng phát triển,... với những chỉ tiêu yêu cầu, biện pháp và từng thời gian cụ thể, tránh chung chung, dập khuôn, máy móc; cần chú ý những nội dung mà bản thân còn hạn chế để xác định hình thức, biện pháp khắc phục, sửa chữa kịp thời, có hiệu quả. Nội dung, hình thức, biện pháp tự quản lý, tự rèn luyện của đảng viên phải được thực hiện một cách nghiêm túc, triệt để. Trong quá trình thực hiện, mỗi đảng viên cần thường xuyên tự liên hệ, tự phê bình, đối chiếu với những chỉ tiêu, nội dung, yêu cầu đã đề ra để kịp thời có biện pháp tự điều chỉnh, hoặc nhờ sự giúp đỡ của đồng chí, đồng đội, sự giúp đỡ của tổ chức, nhằm phát huy kết quả đã đạt được, khắc phục hạn chế thiếu sót còn tồn tại.

Năm là, chú trọng rèn luyện cho đảng viên, học viên đức tính kiên trì, bền bỉ trong học tập, công tác, trong tự quản lý

Quá trình kiên trì, bền bỉ rèn luyện là quá trình hình thành, phát triển những thói quen, hành vi tốt, từ phẩm chất đạo đức, kỹ năng, phương pháp, tác phong công tác. Theo đó người đảng viên sẽ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ năng lực tốt đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài, dù gặp tình huống nào cũng không bị dao động, không bị tự diễn biến. Mặt khác, tự quản lý là sự khổ luyện công phu, là quá trình đấu tranh gay gắt giữa yêu cầu và khả năng, giữa cái đúng với cái sai, giữa cái tiến bộ với cái lạc hậu, giữa lợi ích tập thể với lợi ích cá nhân. Đòi hỏi mỗi đảng viên phải thực sự tự tin, kiên trì, dũng cảm, phát huy nội lực, chỉ khi đó quá trình tự quản lý của mỗi đảng viên mới có thể đạt kết quả. Tự quản lý của đảng viên ở các chi bộ đại đội học viên là quá trình gian khổ, phức tạp, đòi hỏi mỗi đảng viên phải thường xuyên tự giác cao, nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn; thường xuyên tự phê bình và phê bình, xem đó là “chìa khóa vàng” trong tự quản lý.

Mỗi đảng viên phải tự xây dựng động cơ, trách nhiệm đúng đắn; luôn đặt mình vào tổ chức, đặt lợi ích của tập thể trên lợi ích cá nhân; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ người đảng viên, có như vậy mới có thể trở thành đảng viên tốt, góp phần tích cực vào nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của chi bộ, theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do đảng viên đều tốt” (2). Khi đảng viên tốt, chi bộ tốt nghĩa là đoàn kết tốt, dân chủ cao, không còn hiện tượng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong bất luận hoàn cảnh nào./.

--------------------------------------------------------------

Chú thích:

(1) Ban Tổ chức, Phòng chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị và Trường Sĩ quan Lục quân 1

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t. 15, tr. 113