Hiệu quả Đề án 52 với người dân vùng biển Thái Bình
TCCSĐT - Năm 2010 là năm thứ hai thực hiện “Đề án Kiểm soát dân số vùng biển, đảo và ven biển (Đề án 52)”, người dân Thái Bình trong diện kiểm soát của Đề án không chỉ được nâng cao về nhận thức mà còn được trực tiếp thụ hưởng dịch vụ của các mô hình nâng cao chất lượng dân số và kế hoạch hóa gia đình.
Thái Bình là một trong những tỉnh “vào cuộc” sớm thực hiện Đề án 52 của Chính phủ từ nửa cuối năm 2009. Với sự chỉ đạo, hướng dẫn của Ban quản lý Đề án ở Trung ương, Chi cục Dân số - kế hoạch hóa gia đình, sở Y tế của tỉnh đã tham mưu cho tỉnh và nhận được sự ủng hộ của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh, Đề án 52 của tỉnh được phê duyệt. Bộ máy quản lý Đề án được thành lập từ tỉnh đến cơ sở nhờ sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, đoàn thể và tổ chức xã hội ở địa phương. Đó là những cơ sở tạo thuận lợi căn bản cho việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ của Đề án Kiểm soát Dân số vùng biển, ven biển Thái Bình năm 2010.
Cách làm của Thái Bình khá chu đáo, bài bản và sâu sát, cụ thể. Ban quản lý Đề án “Kiểm soát dân số vùng biển, ven biển” của tỉnh xây dựng văn bản chung hướng dẫn triển khai Đề án năm 2010 và “chi tiết hóa” các nội dung thực hiện qua việc xây dựng kế hoạch từng mô hình: mô hình “Nâng cao chất lượng dân số khi sinh”(số 03/KH-CCDS); mô hình hình “Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý” (số 04/KH-CCDS); mô hình “Đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em/ kế hoạch hoá gia đình”( số 05/HD-CCDS) và mô hình “Phòng ngừa các bệnh lây truyền qua đường tình dục và có thai ngoài ý muốn, thực hiện nạo phá thai an toàn”(số 06/HD-CCDS).
Công tác tuyên truyền được tổ chức bằng nhiều hình thức linh hoạt trên bình diện rộng ở cả ba cấp: tỉnh, huyện và xã. Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh có quy chế phối hợp thường xuyên với các cơ quan thông tin đại chúng như với đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh, ban Chuyên đề đài Truyền hình Việt Nam tổ chức sản xuất chương trình phát trên sóng; xây dựng các trang chuyên đề trên báo Thái Bình; với các Trung tâm Văn hóa tỉnh và huyện tổ chức “sân khấu hóa tuyên truyền”, kẻ vẽ khẩu hiệu, pa nô nơi công cộng để tuyên truyền, vận động nhân dân thường xuyên. Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh đã sản xuất 2 chương trình phóng sự về sức khỏe bà mẹ trẻ em/kế hoạch hoá gia đình ở các xã ven biển, cùng hàng chục tin bài khác, phát trên sóng của đài với tần suất cao. Đài truyền thanh huyện và xã đã tăng thời lượng phát hàng nghìn lượt tin bài. Ban Chuyên đề đài Truyền Hình Việt Nam kênh VTV2 sản xuất và phát sóng nhiều lượt phóng sự “ Vấn đề đảm bảo sức khoẻ sinh sản cho bà mẹ và em gái tuổi vị thành niên”. Đội tuyên truyền lưu động Trung tâm Văn hoá huyện Vũ Thư sáng tác các chương trình sân khấu “tự biên” biểu diễn lưu động tại 6 xã ven biển, phản ánh về các hoạt động kiểm soat dân số tại vùng biển. Các báo Thái Bình, báo Gia đình và Xã hội đăng 11 tin bài với số lượng phát hành hàng chục nghìn bản về các hoạt động kiểm soát dân số vùng biển Thái Bình. Các đội thông tin và đội dịch vụ lưu động của Đề án đã nhân bản, tán phát 114.000 tờ rơi, phát hành 1.000 cuốn sách mỏng có nội dung về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác DS-KHHGĐ, về kết quả hoạt động của các mô hình “kiểm soát dân số biển, đảo và ven biển”.
Tại 40 xã khó khăn, xã có bờ biển đã tổ chức hội nghị truyền thông trực tiếp nội dung về Pháp lệnh Dân số sửa đổi, về quy mô cơ cấu, chất lượng dân số vùng biển, ven biển; tư vấn trực tiếp về chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình, phòng chống viêm nhiễm đường sinh sản, thực hiện các biện pháp phòng ngừa mang thai ngoài ý muốn… cho hơn 8000 lượt người là cán bộ lãnh đạo, các ngành, đoàn thể ở cơ sở và cho các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, các cháu vị thành niên và thanh niên trẻ.
Mô hình “Đáp ứng Nhu cầu chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hoá gia đình” triển khai tại 10 xã có tỷ lệ sinh và sinh con thứ 3 trở lên cao như: Thụy Chính, Thụy Thanh, Thụy Việt, Thái Hà, Thái Đô (huyện Thái Thụy); Đông Long, Đông Minh, Nam Hưng, Nam Phú, Phương Công (huyện Tiền Hải), đội dịch vụ lưu động huyện đã tuyên truyền, tư vấn và cung cấp 3 gói dịch vụ tới người dân ở cơ sở; khám phụ khoa cho 10.526 phụ nữ, điều trị cho 5.801 người mắc bệnh, vận động đình sản 18 ca, đặt dụng cụ tử cung 1.432 ca; tiêm và cho uống thuốc tránh thai 881 ca; 740 ca sử dụng bao cao su, hỗ trợ 31 ca viêm nhiễm nặng được chuyển lên chữa ở tuyến trên và vận động nạo hút thai con thứ 3+ là 03 ca.
Mô hình “Nâng cao chất lượng dân số khi sinh” duy trì tốt 5 xã năm 2009 và mở rộng thêm 5 xã năm 2010. Tổ chức các hoạt động tập huấn cho các phó ban Dân số, trạm trưởng và nữ hộ sinh trạm Y tế, cán bộ đài truyền thanh xã, cộng tác viên dân số của 5 xã với nội dung về chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em. 2.264 lượt người tham dự hội nghị truyền thông trực tiếp tại xã về kiến thức chăm sóc bà mẹ mang thai và phòng ngừa bệnh tật ở thai nhi và sơ sinh. 821 lượt thai phụ được khám và tư vấn, trong đó, 247 thai phụ được sàng lọc, 62 bệnh nhân có nghi ngờ về dị tật, dị dạng thai nhi được xét nghiệm máu và chuyển lên tuyến trên kiểm soát điều trị.
Mô hình “Phòng ngừa viêm nhiễm đường sinh sản, phòng ngừa mang thai ngoài ý muốn phá và thai an toàn” được duy trì tốt tại 5 xã và mở rộng thêm 2 xã mới thuộc huyện Thái Thụy. Có 49 câu lạc bộ chăm sóc sức khỏe sinh sản tổ chức sinh hoạt thường xuyên về những nội dung đặt ra của các mô hình và đi sâu trao đổi 18 chuyên đề về chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Đặc biệt, tại hai huyện triển khai Đề án 52, Thái Bình đã “chọn mẫu” 500 người ở độ tuổi vị thành niên và thanh niên trẻ, khảo sát thu thập thông tin về hiểu biết ban đầu sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình để có thông tin định hướng, từ đó, xử lý và điều chỉnh công tác truyền thông cho nhóm đối tượng này nhằm nâng cao hiệu quả triển khai mô hình cho những năm tiếp theo.
Thông qua sinh hoạt câu lạc bộ tại cộng đồng, đối tượng là bậc cha mẹ có con ở tuổi vị thành niên cũng được vận động, hướng dẫn kiến thức về sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình, tháo gỡ các rào cản, giúp họ có thể trao đổi trực tiếp với con cái, nhằm chuẩn bị cho lớp trẻ tri thức cần thiết về quan hệ hôn nhân từ trong mỗi gia đình.
Mô hình “Hoàn thiện hệ thống thông tin, quản lý” đã cập nhật thông tin, tư vấn và cung cấp trang thiết bị y tế về chăm sóc sức khoẻ sinh sản - kế hoạch hóa gia đình, cung cấp bao cao su, thuốc tránh thai cho người làm việc trước khi đi biển dài ngày hoặc trước khi cập bờ tới các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ. Mở rộng triển khai quản lý thông tin, khảo sát cung cấp trang thiết bị y tế chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em/kế hoạch hóa gia đình thêm 6 xã, nâng tổng số xã có mô hình này lên 13 đơn vị. Tại 100% số xã đã được khảo sát về nhu cầu bổ sung các chỉ tiêu thông tin về kiểm soát dân số vùng biển. Các xã thường xuyên cập nhật thông tin biến động dân số vào sổ hộ gia đình. Năm 2009 đã tiến hành thu thập, xử lý và cập nhật thông tin kho dữ liệu điện tử cấp huyện và 5 xã thuộc huyện Tiền Hải. Năm 2010, mở rộng thêm 5 xã của huyện Thái Thụy, trang bị máy tính và tập huấn cho cán bộ chuyên trách sử dụng phần mềm MIS, giúp cho các xã có thể chủ động cập nhật chính xác số liệu di, biến động dân số tại địa bàn..
Thường xuyên theo dõi, quản lý, giám sát hoạt động và định kỳ đánh giá kết quả hoạt động Đề án Kiểm soát Dân số tại địa phương là một nhiệm vụ quan trọng. Chi cục DS-KHHGĐ đã cùng với các sở, ban, ngành liên quan và Ủy ban Nhân dân 2 huyện Thái Thụy, Tiền Hải chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra, giám sát trực tiếp tại 83 xã thực hiện Đề án. Nhờ vậy, các nội dung yêu cầu đặt ra đã tiến triển tốt, đáp ứng cả về tiến độ và chất lượng.
Công tác kiểm soát dân số vùng biển và ven biển ở Thái Bình đang hoạt động có hiệu quả. Người dân được hưởng lợi từ dịch vụ mà các mô hình đem lại. Tuy nhiên, những khó khăn, thiếu thốn về trang thiết bị chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình cũng như vấn đề nâng cao hiểu biết cho người dân mưu sinh bằng nghề biển để họ tự khắc phục những rào cản phong tục và nếp nghĩ lạc hậu vẫn là những “sóng gió trước biển” mà các cán bộ dân số - kế hoạch hóa gia đình phải nỗ lực vượt qua./.
Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại góp phần thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu  (23/12/2010)
Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua 45 nghị quyết  (23/12/2010)
Các Công ước Quốc tế về Quyền con người và Cơ chế thực hiện  (23/12/2010)
Bế mạc Liên hoan Thanh niên, Sinh viên thế giới lần thứ 17  (23/12/2010)
Phải luôn gắn Cuộc vận động với nhiệm vụ chuyên môn  (23/12/2010)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm