Về vấn đề quyền của phụ nữ trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Trong luật nhân quyền quốc tế, quyền của phụ nữ được chế định chủ yếu trong Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt với phụ nữ gồm 21 điều (CEDAW, năm 1979), Nghị định thư bổ sung của Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối với phụ nữ (năm 1999) và Nghị định thư về ngăn, nghiêm cấm và trừng phạt đối với tội buôn người, đặc biệt phụ nữ và trẻ em,... (năm 2000).
Quyền phụ nữ được chế định dưới dạng quyền trực tiếp và quyền gián tiếp hay quyền thụ động:
- Quyền: được sống và phát triển, có họ tên và quốc tịch,...
- Tự do (hay quyền cơ bản): tự do tiếp nhận thông tin, tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo, ...
- Trách nhiệm của xã hội đối với phụ nữ: chế định các nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ, thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ và đưa ra những chỉ dẫn phù hợp,...
- Bảo vệ xã hội đối với phụ nữ: khỏi sự bóc lột và lạm dụng tình dục, khỏi bị mua bán và bắt cóc, khỏi bị tra tấn và tước đoạt tự do, khỏi ảnh hưởng của xung đột vũ trang,...
Nội dung quyền phụ nữ trong CEDAW gồm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. CEDAW công nhận phụ nữ là con người đầy đủ trên cơ sở coi quyền con người là thống nhất, chứ không phân thành 2 nhóm tách biệt giữa nam và nữ. Công ước quy định các vấn đề liên quan đến cuộc sống xã hội cũng như cuộc sống riêng tư của phụ nữ, như: giới và quan điểm sai lầm phổ biến về quyền của phụ nữ, phân biệt đối xử, an ninh con người và phụ nữ, phụ nữ và nghèo đói, phụ nữ và sức khỏe, phụ nữ và bạo lực, phụ nữ và xung đột vũ trang, phụ nữ và các nguồn tài nguyên thiên nhiên và vấn đề trẻ em gái. Một số điều khoản đề cập đến vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, nhu cầu gánh vác trách nhiệm trong gia đình và sự cần thiết phải thay đổi trong hệ thống xã hội để cải thiện vị trí của phụ nữ.
Việt Nam phê chuẩn Công ước về Xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) vào ngày 17-2-1982 và CEDAW có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày 19-3-1982. Với việc phê chuẩn này, Việt Nam trở thành quốc gia thành viên của CEDAW (1) và có nghĩa vụ thực hiện CEDAW.
Ngày 29-11-2006, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Bình đẳng giới; sau đó, Chính phủ đã ban hành 3 nghị định thực hiện. Luật Bình đẳng giới là văn bản pháp luật toàn diện nhằm bảo đảm sự bình đẳng trong tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế và gia đình. Luật quy định các biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới gồm: thúc đẩy bình đẳng hay áp dụng các biện pháp đặc biệt tạm thời; lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục; xác định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, kể cả cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan, tổ chức khác; quy định các hành vi bị cấm.
Quyền của phụ nữ được chế định trong Hiến pháp năm 1946 và trong tất cả các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992, gồm cả lần sửa đổi vào năm 2001. Trong Hiến pháp năm 1992, quyền phụ nữ được chế định trực tiếp trong Điều 63, 64 và được hàm chứa trong một số điều khác (Điều 39, 40, 50,...).
Chế định quyền của phụ nữ trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Thứ nhất, các quyền trực tiếp của phụ nữ
Điều 27 (sửa đổi, bổ sung Điều 63):
1. Công dân nam, nữ bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình.
2. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi lĩnh vực. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.
3. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới.
Điều 39 (sửa đổi, bổ sung Điều 64):
1. Nam, nữ có quyền kết hôn và ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.
Khoản 2 Điều 62 (sửa đổi, bổ sung Điều 39, Điều 40):
2. Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, bảo đảm quy mô, cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số.
Thứ hai, quyền phụ nữ được hàm chứa trong việc chế định các quyền con người, cụ thể được thể hiện ở cụm từ “mọi người”
Điều 16 (mới):
1. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 2. Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Điều 17 (sửa đổi, bổ sung Điều 52):
1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Điều 21 (mới):
Mọi người có quyền sống.
Điều 22 (sửa đổi, bổ sung Điều 71):
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. 2. Nghiêm cấm mọi hành vi tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử khác xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con người. 3. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm khác trên cơ thể người phải được người đó đồng ý.
Điều 23 (sửa đổi, bổ sung Điều 73):
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Không được phép thu thập, lưu giữ, sử dụng và phổ biến thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người khác nếu không được người đó đồng ý. 2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác do pháp luật quy định.
Điều 25 (sửa đổi, bổ sung Điều 70):
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,...
Điều 31 (sửa đổi, bổ sung Điều 74):
1. Mọi người có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. 3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
Điều 32 (sửa đổi, bổ sung Điều 72):
1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. 2. Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. 3. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa. 4. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.
Điều 33 (sửa đổi, bổ sung Điều 58):
1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 57 và Điều 58. 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.
Điều 34 (sửa đổi, bổ sung Điều 57):
1. Mọi người có quyền tự do kinh doanh. 2. Nhà nước bảo hộ quyền tự do kinh doanh.
Điều 43 (sửa đổi, bổ sung Điều 60):
1. Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; sáng tạo văn học, nghệ thuật.
Điều 44 (mới):
Mọi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá trị văn hóa.
Điều 46 (mới):
1. Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành. 2. Mọi người có nghĩa vụ bảo vệ môi trường.
Khoản 3 Điều 64 (sửa đổi, bổ sung các điều 30, 31, 32, 33 và 34):
Xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có văn hóa, có ý thức làm chủ, có trách nhiệm công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Việc chế định quyền của phụ nữ trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã khắc phục được sự nhầm lẫn giữa quyền con người với quyền công dân cũng như chuyển được cách thức thức thiết lập quyền từ chỗ quy định dưới dạng Nhà nước “quyết định” quyền cho công dân và mọi người, sang việc công dân và mọi người được hưởng các quyền đó một cách mặc nhiên và Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, trong đó có phụ nữ.
Dự thảo dành cho quyền phụ nữ một khuôn khổ khá rộng lớn gồm cả quyền trực tiếp và quyền hàm chứa, với nhiều quyền con người cơ bản mà luật nhân quyền quốc tế và hiến pháp của nhiều nước trên thế giới đã ghi nhận; trong đó có một số quyền mới (quyền sống, quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; sáng tạo văn học, nghệ thuật; quyền được sống trong môi trường trong lành; ...).
Mặc dù đã có chế định về trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ, ví dụ Khoản 2 Điều 27, Điều 39, Điều 62, nhưng trong Dự thảo vẫn còn thiếu hình thức “quyền được bảo vệ” của phụ nữ.
Một số kiến nghị
Trong Dự thảo nên có một Khoản, có thể trong Điều 39, hoặc bổ sung vào Khoản 2 của Điều 38 hay Điều 40, Điều 41, chế định về việc bảo vệ phụ nữ, nhất là không bị tước đoạt về tính mạng, bảo vệ khỏi sự bóc lột và lạm dụng tình dục, khỏi bị mua bán và bắt cóc, khỏi bị tra tấn và tước đoạt tự do.
Để bảo đảm sự bình đẳng giữa các quyền hiến định và luật định, nên có một Khoản, tốt nhất là một Điều ở Chương 2, quy định về sự bình đẳng giữa các quyền hiến định và luật định, trong đó có quyền phụ nữ.
Nhiều điều trong Dự thảo ràng buộc các quyền hiến định “theo” và do đó, thấp hơn “quy định của pháp luật”. Vì thế nên thay chữ “theo” bằng chữ “do” hay chữ “bằng”./.
-----------------------------------------------------------------
(1) Hiện CEDAW có 187 quốc gia thành viên.
Bốn mươi năm quan hệ Việt Nam - Pháp  (12/04/2013)
Bốn mươi năm quan hệ Việt Nam - Pháp  (12/04/2013)
ASEAN, Trung Quốc sẽ có cuộc gặp đặc biệt bàn về Biển Đông  (11/04/2013)
Tưởng niệm chiến sỹ hy sinh ở thềm lục địa phía Nam  (11/04/2013)
Việt Nam sẽ bán hơn 180.000 tấn gạo cho Philippines  (11/04/2013)
- 138 tác phẩm được chọn vào vòng chung khảo Giải Búa liềm vàng lần thứ X – năm 2025
- 138 tác phẩm được chọn vào vòng chung khảo Giải Búa liềm vàng lần thứ X – năm 2025
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ngoại giao văn hóa: Nâng cao uy tín, vị thế của Thủ đô
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm