TCCS - Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, nhất là sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (năm 1991), Hoa Kỳ (năm 1995) và gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007, quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng được đẩy nhanh và mở rộng, tạo được thế đan xen, gắn kết lợi ích với các nước trên thế giới, đặc biệt là các đối tác chủ chốt, ở những mức độ khác nhau. Quá trình này đã tạo hiệu quả thiết thực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, góp phần hiện thực hóa tầm nhìn, mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045.

Một số nét về đặc điểm tình hình quốc tế

Thứ nhất, tình hình quốc tế có những thuận lợi quan trọng: hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ; kinh tế, thương mại và đầu tư thế giới có triển vọng tiếp tục tăng trưởng trong 10 năm tới. Trong bối cảnh đó, thế và lực của Việt Nam thời gian qua đã đạt nhiều bước tiến quan trọng, tạo điều kiện để Việt Nam tranh thủ các xu thế phát triển mới, cũng như gia tăng thế đan xen, gắn kết, ràng buộc lợi ích giữa Việt Nam và các đối tác trên thế giới.

Thứ hai, kinh tế thế giới vẫn đứng trước nhiều thách thức, rủi ro lớn, kể cả nguy cơ suy thoái, khủng hoảng nghiêm trọng. Các chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu chịu tác động kép của đại dịch COVID-19, cuộc xung đột tại U-crai-na và sự điều chỉnh chiến lược, chính sách của các nước lớn. Các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gay gắt, tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội thế giới. Tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn có những thay đổi nhất định. Mỹ vẫn là “siêu cường” số 1 thế giới, nhưng có sự suy giảm tương đối so với các nước lớn khác; Trung Quốc vươn lên nhanh chóng, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới; Nga đã và đang gặp nhiều khó khăn kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tại U-crai-na vào năm 2014 và được dự báo sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong thời gian tới do cuộc xung đột Nga - U-crai-na; các cường quốc khác nỗ lực củng cố sức mạnh tổng hợp quốc gia và tăng cường tự chủ chiến lược.

Thứ ba, sự chuyển dịch sức mạnh giữa các nước lớn và những điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đưa đến xu hướng các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc là mâu thuẫn cơ bản về vị trí cường quốc số 1 thế giới, diễn ra trong các lĩnh vực và địa bàn, mà khu vực châu Á - Thái Bình Dương là trọng điểm. Cạnh tranh Mỹ - Nga chủ yếu tập trung vào lĩnh vực vũ khí chiến lược, với địa bàn chính là châu Âu. Cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc, Mỹ - Nga mang nhiều sắc thái đa dạng, song các nước đều tránh đụng độ quân sự trực tiếp. Quan hệ giữa Liên minh châu Âu (EU) và các nước lớn khác với Trung Quốc về tổng thể là hòa hoãn, nhưng yếu tố cạnh tranh gia tăng; quan hệ giữa Nga và các nước phương Tây có thêm tính chất đối đầu qua cuộc xung đột tại U-crai-na.

Thứ tư, trong quá trình cạnh tranh, các nước lớn tiếp tục chú trọng tập hợp lực lượng trên cả kênh song phương và đa phương, trong đó các tập hợp lực lượng của Mỹ, Trung Quốc và Nga là nổi trội. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương trong một thập niên qua và trong thế kỷ XXI tiếp tục được đánh giá sẽ là động lực, trung tâm kinh tế; đồng thời, cùng với châu Âu sẽ là các trung tâm địa - chính trị thế giới. Do đó, đây cũng sẽ là một trong những trọng điểm của cạnh tranh chiến lược nước lớn, trong đó tình hình ở Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp.

Thứ năm, cục diện thế giới trong một thập niên qua và trong thời gian tới mang những đặc điểm lớn của thời kỳ Chiến tranh lạnh, chịu sự tác động của mối quan hệ tam giác chiến lược Mỹ - Trung Quốc - Nga, tuy nhiên tình hình có sự khác biệt lớn so với thời kỳ Chiến tranh lạnh. Đó là xu thế đa cực, đa trung tâm trong quan hệ quốc tế đang định hình với xu hướng song tuyến ngày càng rõ nét hơn; sự tùy thuộc lẫn nhau ở mức độ cao giữa các nước lớn, ít có khả năng hình thành các khối quân sự, chính trị đối đầu trực diện; cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc về kinh tế, khoa học - công nghệ nổi trội hơn, vấn đề ý thức hệ ít có khả năng đẩy đến mức độ đối đầu như trong thời kỳ Chiến tranh lạnh; vai trò của các thể chế đa phương khu vực và quốc tế trong giải quyết các vấn đề toàn cầu và xu thế tìm kiếm tự chủ chiến lược của các cường quốc khác. Bên cạnh đó, khu vực châu Á - Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương tiếp tục là địa bàn trung tâm của cạnh tranh chiến lược nước lớn trong thập niên qua và mười năm tới.

Có thể thấy, những đặc điểm tổng quát trên về tình hình cục diện thế giới, sự chuyển đổi trong tương quan lực lượng, cạnh tranh chiến lược và xu thế tập hợp lực lượng của các nước lớn,... góp phần nâng cao vị thế của các quốc gia kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, cân bằng như Việt Nam; mang lại cơ hội tăng cường ảnh hưởng, thúc đẩy lợi ích cũng như tạo thế đan xen, gắn kết và ràng buộc các lợi ích quan trọng của Việt Nam trong các mối quan hệ song phương. Các nước lớn càng coi trọng Việt Nam là quốc gia thành viên ASEAN đang lớn mạnh, có vị trí quan trọng cả về địa - chính trị và địa - kinh tế.

Tuy nhiên, sự biến động phức tạp của tình hình quốc tế tác động và tiềm ẩn những nguy cơ lớn, trực tiếp hơn đến Việt Nam do Việt Nam nằm ở địa bàn giao thoa, tâm điểm của cạnh tranh chiến lược nước lớn tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á. Việt Nam là đối tác quan trọng mà các nước lớn cần tranh thủ, lôi kéo, thậm chí gây sức ép để tập hợp lực lượng trong cạnh tranh. Tình hình chiến tranh, xung đột đưa đến những bất ổn mới, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tư tưởng dân túy, cực hữu tiếp tục diễn biến phức tạp và những khó khăn của các thể chế quốc tế cũng sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc triển khai chính sách, đường lối đối ngoại của Việt Nam cũng như hạn chế phần nào việc mở rộng, gia tăng thế đan xen lợi ích giữa Việt Nam và các đối tác, nhất là các đối tác chủ chốt trên thế giới.

Một số đánh giá về mức độ đan xen, gắn kết lợi ích giữa Việt Nam và các đối tác chủ chốt

Đối với Trung Quốc

Trung Quốc là quốc gia láng giềng, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện quan trọng và cùng chế độ xã hội chủ nghĩa với Việt Nam, đồng thời là cường quốc, có vai trò và ảnh hưởng quốc tế lớn, đang cạnh tranh quyết liệt để vươn lên vị trí trung tâm của vũ đài chính trị quốc tế trong tầm nhìn đến năm 2049. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập và lãnh đạo cách mạng thành công ở mỗi nước, quan hệ song phương Việt Nam - Trung Quốc bước sang giai đoạn mới. Hai Đảng có những lợi ích chung và tích cực hỗ trợ lẫn nhau trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và giành chính quyền ở mỗi nước. Sau khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (ngày 18-1-1950), hai nước tiếp tục dành cho nhau sự ủng hộ thiết thực trên cơ sở nhiều lợi ích chiến lược tương đồng, mặc dù quan hệ hai nước vẫn tồn tại một số vấn đề phức tạp. Sự đan xen lợi ích căn bản lớn nhất giữa Việt Nam với Trung Quốc thể hiện trên các vấn đề cốt lõi sau: 1- Bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; 2- Nhu cầu duy trì môi trường quốc tế thuận lợi để bảo đảm các lợi ích về an ninh, phát triển, vị thế quốc tế của mỗi nước. 

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường_Nguồn: chinhphu.vn

Bên cạnh những lợi ích chiến lược tương đồng, hai bên còn có những giá trị chiến lược riêng trong tổng thể chính sách đối ngoại của mỗi nước. Đối với Trung Quốc, Việt Nam có vị trí hàng đầu trong chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. Việc duy trì quan hệ ổn định với Việt Nam giúp Trung Quốc bảo đảm “vùng đệm an ninh chiến lược của Trung Quốc”. Ngoài ra, Việt Nam là một địa bàn quan trọng để Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng, đáp ứng nhu cầu thị trường, giải quyết năng lực sản xuất dư thừa, thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực phía Nam, phục vụ các sáng kiến, chiến lược kinh tế của Trung Quốc và tận dụng những lợi thế hội nhập kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh đó, việc duy trì quan hệ ổn định với Việt Nam và giải quyết vấn đề Biển Đông trong quan hệ Trung Quốc - Việt Nam là một mục tiêu quan trọng trong tổng thể chiến lược biển của Trung Quốc để vươn lên thành cường quốc hàng đầu thế giới. Đối với Việt Nam, Trung Quốc là đối tác chiến lược quan trọng hàng đầu, có tác động trực tiếp nhất, mạnh nhất đến an ninh và phát triển của Việt Nam; là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, là đối tác hợp tác hàng đầu và cơ hội phát triển để Việt Nam có thể tranh thủ, khai thác hiệu quả quy mô thị trường và tiềm lực kinh tế, khoa học - công nghệ,... của Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng là yếu tố quan trọng tác động đến quan hệ của Việt Nam với Lào và Cam-pu-chia cũng như việc triển khai hoạt động đối ngoại nói chung của Việt Nam. Việc duy trì quan hệ hữu nghị với nước láng giềng lớn giúp Việt Nam bảo đảm vành đai an ninh và phát triển của đất nước; đồng thời, an ninh và phát triển của nước láng giềng Trung Quốc cũng song hành với an ninh và phát triển của Việt Nam.

Trong phần lớn chiều dài lịch sử phát triển quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, hai bên còn gặp nhiều khó khăn, nảy sinh từ ba vấn đề có mối liên hệ với nhau là Biển Đông, cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc và sự tin cậy chính trị, nhất là kể từ sau Đại hội XVIII (năm 2012), Đại hội XIX (năm 2017) và Đại hội XX (năm 2022) của Đảng Cộng sản Trung Quốc khi Trung Quốc công khai mục tiêu và triển khai các sáng kiến lớn để tiến tới trở thành cường quốc hàng đầu thế giới vào giữa thế kỷ XXI, cứng rắn trong bảo vệ “lợi ích cốt lõi”, bao gồm vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, mức độ đan xen lợi ích trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày càng được mở rộng, phát triển cả về phạm vi lĩnh vực hợp tác và nội dung, đặc biệt là tiềm năng và dư địa hợp tác song phương còn rất lớn để hai bên có thể gia tăng thế đan xen lợi ích trong thời gian tới. Mới đây nhất, tháng 9-2023, việc Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự Hội chợ CAEXPO và Hội nghị CABIS lần thứ 20 tiếp tục thể hiện sự coi trọng của cả hai nước đối với quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc, quan hệ hợp tác ASEAN - Trung Quốc và quan hệ giữa các địa phương, doanh nghiệp Việt Nam với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc); thể hiện sự tin cậy chính trị cao độ giữa Việt Nam và Trung Quốc; khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn tốt, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế được đề ra tại Đại hội XIII của Đảng.

Đối với Lào, Cam-pu-chia

Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia là ba nước láng giềng có vị trí địa - chính trị hết sức quan trọng tại khu vực Đông Nam Á, cùng truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ Việt Nam - Lào, Việt Nam - Cam-pu-chia được đặt vào vị trí ưu tiên hàng đầu trong tổng thể chính sách đối ngoại của mỗi nước. Việt Nam và Lào có chung đường biên giới trên bộ; có quan hệ truyền thống đoàn kết đặc biệt, gắn bó chiến lược, hy sinh xương máu vì nhau trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Việt Nam và Cam-pu-chia có chung đường biên giới trên bộ, trên biển(1); có sự gắn kết về lịch sử, văn hóa; có quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp. Đây là những nền tảng quan trọng thúc đẩy hợp tác, tạo thế đan xen lợi ích giữa Việt Nam với Lào và Cam-pu-chia.

Sự đan xen lợi ích căn bản lớn nhất giữa Việt Nam với Lào, Cam-pu-chia và các bên cùng có lợi ích chiến lược tương đồng trên các vấn đề cốt lõi sau: 1- An ninh và phát triển của ba nước có liên quan mật thiết với nhau, không thể tách rời; bất ổn ở nước này sẽ tác động trực tiếp đến nước kia và ngược lại; 2- Duy trì môi trường quốc tế thuận lợi để bảo đảm các lợi ích về an ninh, phát triển của mỗi nước. Trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến hết sức nhanh chóng, khó lường, với những hình thái tập hợp lực lượng đa dạng và cạnh tranh chiến lược phức tạp, nhất là giữa các nước lớn ở khu vực, việc ba nước củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhau có lợi trong việc tạo lập môi trường hòa bình, ổn định lại càng có giá trị to lớn và ý nghĩa quan trọng trong vấn đề bảo đảm an ninh và phát triển của mỗi nước.

Bên cạnh một số lợi ích tương đồng, các bên còn có những giá trị chiến lược riêng trong tổng thể chính sách đối ngoại của nhau. Về giá trị chiến lược của Việt Nam đối với Lào và Cam-pu-chia: Lào luôn coi trọng quan hệ đặc biệt với Việt Nam, xác định Việt Nam là ưu tiên cao nhất trong chính sách đối ngoại(2) và là chỗ dựa tin cậy, yếu tố then chốt trong bảo đảm lợi ích quốc gia, song cũng có xu hướng “đa dạng hóa quan hệ”, tìm kiếm sự gắn kết trong quan hệ với các nước lớn khác, nhất là Trung Quốc. Cam-pu-chia cũng luôn coi trọng quan hệ với Việt Nam, xác định gắn kết với Việt Nam là yếu tố then chốt trong bảo đảm an ninh và phát triển của đất nước, song Cam-pu-chia cũng hiểu được nhu cầu của Việt Nam trong thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ với Bạn, do đó một mặt, Cam-pu-chia tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ nhiều mặt của Việt Nam; mặt khác, tăng cường quan hệ quốc phòng - an ninh với Trung Quốc. Cam-pu-chia cũng đặc biệt coi trọng ASEAN, xem ASEAN như một chỗ dựa. Về giá trị của Lào, Cam-pu-chia đối với Việt Nam: Đây là hai quốc gia láng giềng, là địa bàn chiến lược có ý nghĩa sống còn đối với ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh của Việt Nam. Lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã chứng minh vai trò đặc biệt quan trọng của hai nước Lào và Cam-pu-chia đối với quốc phòng - an ninh Việt Nam; là “phên giậu”, vùng đệm an ninh đối với Việt Nam. Việt Nam có lợi ích chiến lược cơ bản, lâu dài trong sự ổn định, hòa bình, độc lập, tự chủ, phát triển, hội nhập với khu vực, thế giới cũng như trong việc duy trì tình đoàn kết, quan hệ hữu nghị láng giềng và hợp tác toàn diện ổn định, bền vững với Lào và Cam-pu-chia; bảo đảm vững chắc an ninh vùng chiến lược phía Tây và Tây Nam của Việt Nam, ngăn chặn hiệu quả các hoạt động chống phá của các lực lượng thù địch, phản động, nhất là từ địa bàn Cam-pu-chia; giúp hạn chế tối đa các yếu tố bất lợi đối với Việt Nam trong vấn đề tiểu vùng sông Mê Công và Biển Đông.

Mặc dù vậy, quan hệ của Việt Nam với Lào và Cam-pu-chia cũng đứng trước một số khó khăn, thách thức: 1- Việt Nam và Lào chưa có nhiều tiếng nói chung trong một số vấn đề lớn ở khu vực; 2- Một số nhận thức sai lệch về quan hệ của Việt Nam với các đối tác lớn vẫn nảy sinh; 3- Việc giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ và người Cam-pu-chia gốc Việt vẫn còn một số vướng mắc; Mọi sự biến động của nền kinh tế Trung Quốc - nền kinh tế lớn thứ hai thế giới có thể tạo ra cả tác động tích cực lẫn tiêu cực đối với Lào và Cam-pu-chia; 4- Cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc gia tăng, có xu hướng điều chỉnh cân bằng ở cả Đông Nam Á lục địa và hải đảo, nhất là việc Mỹ ngày càng quan tâm can dự vào tiểu vùng Mê Công. Tuy nhiên, mức độ đan xen lợi ích trong quan hệ Việt Nam - Lào, Việt Nam - Cam-pu-chia thời gian qua vẫn liên tục được mở rộng, phát triển cả về phạm vi lĩnh vực hợp tác và nội dung; đồng thời, ba nước đều có lợi ích chiến lược đan xen trong việc phát triển quan hệ toàn diện. Đối với Lào, có thể nói, thành tựu lớn nhất chính là sự xuyên suốt và nhất quán trong nhận thức, quan điểm và chủ trương về việc không ngừng củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào. Đối với Cam-pu-chia, với phương châm “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”, trong những năm qua, mối quan hệ truyền thống, hữu nghị Việt Nam - Cam-pu-chia không ngừng được củng cố và phát triển, thể hiện sự coi trọng và luôn dành ưu tiên cho nhau trong mối quan hệ láng giềng tốt đẹp. Về tổng thể, quan hệ giữa Việt Nam với Lào và Cam-pu-chia nhìn chung đạt được nhiều kết quả quan trọng, duy trì quan hệ truyền thống đoàn kết, hữu nghị tốt đẹp; tuy nhiên, hai bên chưa thực sự tạo được thế đan xen, gắn kết, ràng buộc lợi ích cao, cũng như chưa khai thác hết tiềm năng, tiềm lực của nhau, nhất là trong hợp tác quốc phòng - an ninh; hợp tác kinh tế, giáo dục - đào tạo chưa có sự đột phá. 

Đối với Nga

Nga không chỉ là quốc gia có lãnh thổ lớn nhất thế giới, cường quốc quân sự đứng thứ hai thế giới (sau Mỹ), mà còn là “siêu cường” năng lượng với lượng khoáng sản lớn nhất thế giới. Quan hệ giữa Việt Nam và Nga có những gắn bó sâu sắc trong lịch sử, đoàn kết và dành cho nhau sự giúp đỡ đặc biệt, thể hiện xuyên suốt trong quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước. Liên Xô (trước đây) là nguồn sức mạnh quốc tế quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.

Nhìn chung, quan hệ giữa Việt Nam với Nga ngày nay và Liên Xô trước đây là quan hệ giữa những người bạn thủy chung, là đối tác truyền thống, hữu nghị đặc biệt của nhau; nhân dân hai nước từng kề vai sát cánh, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Hai nước đều có lợi ích song trùng căn bản trong phối hợp lập trường, quan điểm trên một số vấn đề khu vực và quốc tế cùng có lợi; nhu cầu duy trì môi trường quốc tế thuận lợi để bảo đảm các mục tiêu về an ninh, phát triển, vị thế quốc tế của mỗi nước. 

Bên cạnh lợi ích chiến lược tương đồng, hai bên cũng có những giá trị chiến lược riêng trong tổng thể chính sách đối ngoại của nhau. Đối với Nga, Nga đánh giá cao quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam, coi Việt Nam là ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nga có lợi ích trong việc Việt Nam duy trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, là đối tác tin cậy của Nga, ủng hộ Nga hiện diện tại khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Đối với Việt Nam, Nga là cường quốc có vai trò, vị thế quốc tế và ảnh hưởng lớn; là đối tác chiến lược toàn diện, có vai trò quan trọng hàng đầu về quốc phòng - an ninh; là ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; là bạn bè truyền thống và không có mâu thuẫn về lợi ích chiến lược với Việt Nam. Việc thúc đẩy quan hệ với Nga có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Tranh thủ quan hệ với Nga tạo thế trong quan hệ với Mỹ, Trung Quốc, giúp giảm thiểu nguy cơ thỏa hiệp trên những vấn đề quan trọng liên quan đến lợi ích chiến lược của Việt Nam.

Trong suốt bảy mươi ba năm qua kể từ khi Việt Nam và Nga chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (30-1-1950 - 30-1-2023), trải qua muôn vàn khó khăn, thử thách của thời gian và biến động của lịch sử, tuy cách xa nhau về địa lý, nhưng mối quan hệ giữa hai nước luôn có sự gắn bó đặc biệt, không ngừng phát triển và luôn hướng tới tương lai. Đặc biệt, mức độ đan xen lợi ích trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga ngày càng được mở rộng, phát triển cả về phạm vi lĩnh vực hợp tác và nội dung với nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả lĩnh vực; tiềm năng, dư địa hợp tác song phương còn rất lớn để có thể gia tăng thế đan xen lợi ích trong thời gian tới, nhất là trên lĩnh vực kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ, năng lượng, quốc phòng - an ninh, chính trị - ngoại giao, giáo dục - đào tạo.

Đối với Mỹ

Mỹ hiện nay là “siêu cường” số 1 thế giới, đứng đầu các nước tư bản chủ nghĩa, với sức mạnh tổng hợp quốc gia lớn nhất, dẫn đầu thế giới trong hầu hết lĩnh vực quan trọng và các mối quan hệ đồng minh, liên kết; theo nhận định của nhiều chuyên gia, nhiều khả năng Mỹ sẽ duy trì được sự vượt trội này trong 5 - 10 năm tới. Quan hệ Việt Nam - Mỹ kể từ khi bình thường hóa (năm 1995) đến nay phát triển cả bề rộng và chiều sâu, tạo thế đan xen, gắn kết lợi ích ngày càng sâu sắc, mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai nước. Việt Nam và Mỹ có nhiều lợi ích và điểm song trùng căn bản trong phối hợp lập trường, quan điểm trên một số vấn đề khu vực và quốc tế cùng có lợi, cũng như nhu cầu duy trì môi trường quốc tế thuận lợi để bảo đảm các mục tiêu về an ninh, phát triển, vị thế quốc tế của mỗi nước. 

Bên cạnh một số lợi ích tương đồng, theo nhận định của nhiều chuyên gia, hai bên còn có những giá trị chiến lược riêng trong tổng thể chính sách đối ngoại của nhau. Đối với Mỹ, căn cứ các yếu tố chính, xuyên suốt chi phối chính sách đối ngoại của Mỹ cũng như yêu cầu chiến lược của Mỹ trong thời gian tới, trong đó có Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và các bước triển khai của Mỹ trong quan hệ với Việt Nam thời gian qua cho thấy, Mỹ xác định Việt Nam có vị trí quan trọng trong chiến lược cạnh tranh của Mỹ với Trung Quốc và Việt Nam luôn được đặt ở vị trí cao trong số các đối tác ASEAN của Mỹ; tranh thủ giá trị địa - chiến lược của Việt Nam để phục vụ triển khai Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Mỹ tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương; tranh thủ thị trường và vị trí địa - kinh tế của Việt Nam để thúc đẩy các lợi ích kinh tế của Mỹ. Đối với Việt Nam, Mỹ là đối tác quan trọng hàng đầu với Việt Nam, trước hết là trong việc tranh thủ các thế mạnh và nguồn lực tiên tiến phục vụ cho phát triển, đồng thời tạo đòn bẩy quan trọng để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với các đối tác khác.

Trong chiều dài lịch sử phát triển quan hệ với Mỹ, mặc dù giữa hai bên còn một số khó khăn, tuy nhiên mức độ đan xen lợi ích trong quan hệ Việt Nam - Mỹ ngày càng được mở rộng, phát triển cả về phạm vi lĩnh vực hợp tác và nội dung; đặc biệt, tiềm năng, dư địa hợp tác song phương còn rất lớn để có thể gia tăng thế đan xen lợi ích trong thời gian tới. Điều này thể hiện qua chiều hướng phát triển ngày càng tích cực trong quan hệ hai nước, đạt được nhiều nhận thức chung quan trọng và phối hợp hành động. Tháng 7-2013, hai nước xác lập quan hệ đối tác toàn diện, chủ trương tăng cường quan hệ song phương trên chín lĩnh vực then chốt(3). Trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn vào ngày 10 và 11-9-2023, lãnh đạo hai nước đã ra Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Hai nước nhấn mạnh các nguyên tắc nền tảng định hướng quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, bao gồm tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; đồng thời khẳng định, sự hiểu biết lẫn nhau, hoàn cảnh của nhau, tôn trọng những lợi ích chính đáng của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau là những nguyên tắc cơ bản luôn có ý nghĩa quan trọng cho quan hệ hai nước và quan hệ quốc tế.

Chế biến thủy sản xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, Trung Quốc, EU_Ảnh: TTXVN

Hàm ý chính sách trong quan hệ quốc tế thời gian tới

Về định hướng chung: Quán triệt, vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về đối ngoại, hội nhập quốc tế được nêu trong các văn bản chỉ đạo của Đảng, trong đó có Văn kiện Đại hội XIII và Nghị quyết số 34/NQ-TW, ngày 9-1-2023, của Bộ Chính trị, “Về một số định hướng, chủ trương lớn trong triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng”.

Một số định hướng, biện pháp cụ thể:

Một là, củng cố thế cân bằng chiến lược, phát triển hài hòa và làm sâu sắc thêm quan hệ của Việt Nam với các quốc gia láng giềng, các đối tác quan trọng, qua đó góp phần củng cố vững chắc hơn môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát triển đất nước.

Hai là, tranh thủ cơ hội hợp tác trên cơ sở thế đan xen, gắn kết lợi ích giữa Việt Nam và các đối tác, tạo hiệu quả thiết thực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, góp phần hiện thực hóa tầm nhìn, mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045.

Ba là, tạo lập mối quan hệ hợp tác với các quốc gia trên thế giới, nhất là các đối tác chủ chốt, quan trọng dựa trên cơ sở tùy thuộc lẫn nhau về an ninh và phát triển là một bảo đảm hết sức quan trọng nhằm xác lập được vị thế có lợi, giảm thiểu bất lợi trong quan hệ của các nước với nhau, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, nâng cao vị thế của mỗi nước. Giải quyết hiệu quả các mối quan hệ song phương giữa Việt Nam với các nước trên thế giới sẽ là cơ sở để Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thực chất và hiệu quả.

Bốn là, quá trình hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện nay rất cần một tầm nhìn chiến lược đối với các vấn đề địa - chính trị ở cả khu vực Đông Nam Á, rộng hơn là châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới. Tầm nhìn này thể hiện ở sự gắn kết chặt chẽ về an ninh, phát triển của đất nước với khu vực, từ đó làm cơ sở nền tảng cho thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.

Năm là, xây dựng một chiến lược đối ngoại toàn diện, trong đó bao gồm những định hướng chính sách phát triển quan hệ với các đối tác quan trọng. Trên cơ sở đó, cụ thể hóa thành giải pháp nhằm khắc phục và hạn chế những vấn đề còn tồn đọng, thúc đẩy quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả hơn.

Sáu là, tiếp tục nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện và thấu đáo thực tiễn phát triển quan hệ của Việt Nam với các đối tác quan trọng và động thái phát triển của mối quan hệ đó trong bối cảnh khu vực và thế giới nhiều biến động, khó lường, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nắm vững quan điểm biện chứng về hợp tác và đấu tranh, về đối tác và đối tượng để không bị động, rơi vào thế bị cô lập, “chọn bên” và lệ thuộc.

Bảy là, chủ động triển khai hợp tác cụ thể, thực chất với các đối tác quan trọng, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất, thiết thực và hiệu quả trong quan hệ hợp tác giữa các bên; tranh thủ khai thác tối đa mặt thuận, điểm đồng và hạn chế mâu thuẫn, bất đồng trong quan hệ với các nước, các đối tác, nhất là các đối tác chủ chốt.

Tám là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong nhân dân để nâng cao nhận thức hơn nữa về tầm quan trọng của mối quan hệ láng giềng, mối quan hệ với các đối tác chủ chốt có tầm chiến lược; đồng thời, cảnh giác với mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Trước những thông tin trái chiều, những vấn đề nhạy cảm liên quan đến mối quan hệ láng giềng, xử lý quan hệ với các nước lớn, cần chủ động tuyên truyền kịp thời, chính xác để nhân dân hiểu đúng sự việc và định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận trong xã hội đối với chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ biết trân trọng, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết, hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam với các đối tác truyền thống, hữu nghị./.

----------------------

(1) Cam-pu-chia có đường biên giới đất liền dài 1.137km với Việt Nam; có 9 tỉnh giáp 10 tỉnh của Việt Nam; toàn tuyến có 10 cửa khẩu quốc tế, 9 cửa khẩu chính và 30 cửa khẩu phụ
(2) Văn kiện Đại hội XI của Lào xác định: “Tiếp tục phát huy, làm sâu sắc mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Việt Nam, phấn đấu đưa quan hệ kinh tế, thương mại phát triển tương xứng với thành quả quan hệ chính trị, an ninh...”.
(3) Chính trị - ngoại giao, kinh tế - thương mại, quốc phòng - an ninh, khoa học - công nghệ, giáo dục, môi trường và y tế, văn hóa - du lịch - thể thao, các vấn đề hậu quả chiến tranh, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người