Thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng trong nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng hiện nay
TCCS - Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo đất nước và nhân dân giành được nhiều thắng lợi. Trước sự phát triển của thực tiễn, đòi hỏi Đảng phải không ngừng nâng cao năng lực cầm quyền, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong đó, vấn đề thể chế hóa và định hướng chính sách đối với việc nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cần được tiếp tục đẩy mạnh thực hiện.
Vai trò của thế chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng trong nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng
Thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng có vai trò quan trọng, thể hiện năng lực cầm quyền của Đảng. Điều đó được biểu hiện ở những điểm cụ thể như sau:
Thứ nhất, thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng tạo khung khổ cho việc tổ chức, vận hành xã hội. Vai trò hàng đầu trong hoạt động thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng là định hướng mục tiêu, tạo khung khổ pháp lý cho việc tổ chức vận hành xã hội, vận hành hoạt động của các tổ chức chính trị, đoàn thể trong xã hội hoạt động theo pháp luật và làm những công việc mà pháp luật cho phép.
Thứ hai, thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng thể hiện khả năng Đảng xác lập và định hình khung khổ chung cho mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; theo đó, nền tảng xã hội căn bản vận hành có hiệu quả hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng, hiệu lực thể chế hóa định hướng chính sách. Việc thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng được thực hiện tốt sẽ tạo ra một môi trường chính trị - xã hội ổn định; để Nhà nước thực hiện có hiệu quả việc quản lý xã hội; đồng thời, căn cứ vào nền tảng thể chế hóa đường lối, chủ trương và chính sách đã có, mà mỗi chủ thể trong xã hội đều có thể hoàn thành một cách hợp lý nhất những quyền và nghĩa vụ của mình đối với tổ chức, với xã hội.
Thứ ba, thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng giúp Nhà nước quản lý xã hội và xác lập các công cụ quản lý xã hội một cách hữu hiệu. Vai trò này thể hiện ở việc giúp Nhà nước xây dựng được hệ thống pháp luật, các chính sách, các quy tắc, quy phạm,… với tư cách là hiện thân của thể chế quốc gia, điều tiết việc vận hành xã hội theo định hướng, mục tiêu đã đề ra.
Thứ tư, thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng có vai trò quan trọng trong việc xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh, hạn chế sự tham nhũng, lãng phí. Thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng được hiện hữu bởi hệ thống luật pháp, chính sách, các quy định của Nhà nước…; theo đó, mọi hoạt động, vận hành của các cơ quan nhà nước, các cán bộ, đảng viên được thực hiện và điều chỉnh bởi pháp luật. Thể chế có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự vận hành của chính quyền, nếu như sự vận hành đó tuân thủ nghiêm túc khung khổ thể chế; các chính sách đúng đắn, phù hợp sẽ tạo hướng đi đúng và kiểm soát được hoạt động của các chủ thể trong quá trình tham gia; mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân tuân thủ thể chế và thực hiện tốt chính sách sẽ là tiền đề vững chắc để duy trì hoạt động của Nhà nước, qua đó phòng, chống có hiệu quả tệ nạn tham nhũng, lãng phí.
Thứ năm, thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng góp phần hạn chế những khuyết tật của tiến trình phát triển xã hội, như: Những bất ổn về kinh tế, chính trị hay xã hội, thậm chí đó là những lệch lạc trong thực hiện mục tiêu xã hội; đó còn có thể là những tệ nạn xã hội, những tiêu cực trong phát triển kinh tế; những tổn hại về môi trường mà nguyên nhân là do những “tham vọng lợi nhuận”,… Những hạn chế, khuyết tật trong tiến trình phát triển xã hội có thể được khắc phục hoàn toàn, nếu như nhận thức đúng, thực hiện việc thể chế hóa trúng, chuẩn xác đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng.
Thứ sáu, thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng có vai trò kiểm soát các nguồn lực trong xã hội. Trong thực tế hoạt động kinh tế, các nhóm lợi ích khác nhau sẽ hưởng lợi khác nhau từ các thể chế kinh tế; từ đó, họ có ý đồ thiết kế ra các thể chế chính trị phù hợp để bảo vệ quyền lực kinh tế thực tế của nhóm và qua đó, có quyền kiểm soát nguồn lực trong xã hội. Nếu quyền lực chính trị bị giới hạn trong một nhóm nhỏ, các thể chế kinh tế có thể bị thao túng. Ngược lại, nếu quyền lực chính trị có sự tham gia rộng rãi của người dân thì các thể chế kinh tế sẽ mang lại phúc lợi cho số đông. Vì vậy, với mục tiêu xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Đảng ta đã và đang tăng cường lãnh đạo thể chế hóa đường lối, chủ trương, cũng như sự định hướng chính sách của mình, bảo đảm quyền tự do của mọi người dân trong việc giám sát các nguồn lực xã hội.
Thứ bảy, thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện được đúng các quyền và nghĩa vụ. Với tư cách là hệ thống các công cụ quản lý và điều tiết việc vận hành xã hội, thể chế và chính sách sẽ tạo cơ chế để các chủ thể trong xã hội vừa thực hiện được đầy đủ các quyền, vừa thực hiện được các nghĩa vụ cơ bản của mình và cạnh tranh công bằng hơn; qua đó, sẽ tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, xã hội ổn định.
Thực trạng thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng
Theo Hiến pháp nước ta, hoạt động thể chế hóa do hai chủ thể thực hiện, đó là Đảng và Nhà nước. Đảng giữ vai trò lãnh đạo đối với các hoạt động của Nhà nước, trong đó có hoạt động thể chế hóa. Với tư cách là đảng cầm quyền, Đảng nhận thức được các quy luật vận động và xu hướng phát triển của Nhà nước và xã hội trên cơ sở các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước và tình hình quốc tế; từ đó, đề ra mục tiêu và con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, cũng như những chủ trương, đường lối, chính sách phát triển của đất nước cho phù hợp.
Đối với vấn đề thể chế hóa, Đảng tạo lập các cơ sở chính trị, định hướng nội dung, mục tiêu cho toàn bộ hoạt động thể chế hóa. Điều đó có nghĩa là, những vấn đề về thể chế hóa, trước hết được nhận thức và xác định thành các nguyên tắc chung, qua đó tạo thành cơ sở chính trị cho toàn bộ hoạt động thể chế hóa. Đảng lãnh đạo việc thể chế hóa, trước hết thông qua các quan điểm, đường lối do Đảng vạch ra và được thể hiện tập trung trong các Cương lĩnh chính trị, các văn kiện của Đảng. Đảng xác định đúng đắn, phù hợp, kịp thời toàn bộ con đường và bước đi của cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ lịch sử; hướng tới các mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; trong đó, tập trung hướng đến xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, trên nền tảng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện tại, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng.
Ngoài việc ban hành các Cương lĩnh chính trị để lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa sự lãnh đạo của Đảng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của cách mạng, của đất nước, như “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (năm 1991) và “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng còn ban hành nghị quyết chung cho từng khóa (Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc, thường 5 năm một lần) và nhiều nghị quyết chuyên đề của từng khóa. Đảng không chỉ dừng lại ở việc xác định chủ trương, đường lối làm cơ sở chính trị cho toàn bộ quá trình thể chế hóa, mà còn trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện quy trình thể chế hóa của Nhà nước trong việc tạo lập hệ thống các nguyên tắc, cơ chế, chính sách, luật pháp phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước. Những chủ trương, định hướng lớn của Đảng về vấn đề trên đã và đang được triển khai thực hiện hiệu quả, như Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24-5-2005, của Bộ Chính trị, “Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị, “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”…
Để cụ thể hóa những chủ trương, định hướng lớn của Đảng, Quốc hội ban hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2020. Theo đó, các cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thể chế hóa, từ khâu hình thành chính sách, phân tích chính sách đến xác định nhu cầu lập pháp, lập quy, cho ý kiến đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, trên tinh thần lắng nghe nguyện vọng và ý kiến đóng góp, phản biện xã hội của các tầng lớp nhân dân. Là người đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và những người lao động, đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc Việt Nam, chính vì thế, Đảng không những lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng các văn bản về chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội do Nhà nước lập ra, mà còn lãnh đạo, chỉ đạo đánh giá và cho ý kiến về các văn bản đó.
Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân”(1). Để lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương về xây dựng bộ máy nhà nước, tổ chức quyền lực nhà nước, nhất là về phân công, phân cấp giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương với địa phương, Đảng đã xây dựng và ban hành các nghị quyết về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước, sáp nhập hoặc chia tách các đơn vị hành chính trên cả nước, các cơ quan bộ, các ngành từ Trung ương đến địa phương, phù hợp với thực tiễn (cơ cấu tổ chức, bộ máy, số lượng bộ, ngành, biên chế, nguyên tắc hoạt động...); đồng thời, xây dựng và ban hành các nghị quyết về đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách hành chính trong các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành nguyên tắc làm việc, phân cấp quyền lực giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; thành những giải pháp xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh để thực thi hiệu quả quyền lực được nhân dân ủy thác, để phục vụ nhân dân.
Đảng xác định rõ mối quan hệ công tác giữa Ban Chấp hành Trung ương với Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp, trên cơ sở xây dựng quy chế hoạt động giữa các bên; qua đó, Đảng vừa có đủ năng lực lãnh đạo thể chế hóa, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng một cách đầy đủ, kịp thời, đúng đắn, vừa phải cải tiến, khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay công việc của Nhà nước.
Đảng đề ra đường lối, chủ trương về công tác cán bộ và trực tiếp lãnh đạo thể chế hóa đường lối, chủ trương đó. Theo đó, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị; củng cố, kiện toàn đội ngũ nhân sự chủ chốt và đội ngũ chuyên gia, tư vấn giàu năng lực tham gia thực hiện công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng. Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp, gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm; đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh những sai phạm.
Về vấn đề định hướng chính sách, Đảng luôn thể hiện quan điểm, chủ trương trong định hướng giải quyết các vấn đề trọng yếu của đất nước, từ xây dựng, đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước đến phát triển kinh tế - xã hội, đối nội, đối ngoại. Đảng định hướng, xây dựng chiến lược phát triển các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Trong các cương lĩnh chính trị, Đảng không chỉ xác định đường lối chung để lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mà còn định hướng việc xác lập thể chế chính trị và cơ chế vận hành, những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị sao cho có hiệu quả, phù hợp với quy luật khách quan, trong đó có việc xây dựng và tổ chức thực hiện Hiến pháp và các đạo luật, góp phần quan trọng vào việc tạo cơ sở pháp lý cho Đảng cầm quyền.
Trong định hướng chính sách phát triển kinh tế, Đảng quyết định các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế, các chính sách phát triển kinh tế quan trọng, những chương trình, kế hoạch, giải pháp tạo đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, lãnh đạo việc tổ chức thực hiện. Đảng xác định nền kinh tế của Việt Nam là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ; đồng thời, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, Đảng đề ra đường lối, chủ trương để định hướng chính sách phát triển văn hóa - xã hội theo hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách cụ thể; phát triển hài hòa đời sống vật chất và tinh thần; hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội...
Đảng định hướng chính sách trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, quyết định đường lối xây dựng quốc phòng - an ninh, coi đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; trong đó, Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Mọi hoạt động của Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam đều đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự thống nhất quản lý của Nhà nước. Xác định và định hướng mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng của đất nước trong từng giai đoạn cách mạng. Trên cơ sở đó, Quốc hội, Chính phủ, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Đảng ủy Công an Trung ương và Bộ Công an đề ra các quyết định, nghị định, nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, chế độ, chính sách cụ thể, nhằm xây dựng, củng cố quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội…
Đảng đề ra đường lối, chủ trương và định hướng chính sách trong xây dựng, phát triển quan hệ đối ngoại theo hướng độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng; nâng cao vị thế của đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc phù hợp với luật pháp quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Tăng cường và mở rộng các quan hệ đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trên tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đến khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh. Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại.
Một số giải pháp cơ bản tiếp tục thực hiện thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong thời gian tới
Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình thể chế hóa các chủ trương, đường lối và định hướng chính sách của Đảng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, như có tình trạng “sao chép” các nghị quyết của Đảng; việc thể chế hóa có lúc, có lĩnh vực vừa chưa đồng bộ, chưa bao quát, chưa bảo đảm tính hệ thống và toàn diện; chưa cụ thể, sát thực và thiếu tính khả thi... Để phát huy tốt hơn nữa việc thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng nhằm nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong quá trình thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng. Ở đây, sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định chất lượng thể chế hóa của Nhà nước, bảo đảm cho hệ thống pháp luật, chính sách của Nhà nước được thể chế hóa đầy đủ, chính xác, kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng. Với ý nghĩa đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình thể chế hóa của Nhà nước không chỉ dừng lại ở việc Đảng cho ý kiến chỉ đạo đối với các dự án, dự thảo văn bản pháp luật quan trọng (Hiến pháp, luật), các chính sách, kế hoạch, chương trình phát triển, các lĩnh vực của đời sống xã hội, mà điều quan trọng là các chỉ thị, nghị quyết của Đảng “phải thiết thực, ngắn gọn, khả thi; phải tính đến cân đối các nguồn lực và điều kiện bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả... Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, dứt điểm việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết”(2). Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình thể chế hóa của Nhà nước còn là để khắc phục tình trạng thực hiện trực tiếp đường lối, chủ trương của Đảng mà không qua thể chế hóa hoặc “khoán trắng”, áp đặt cho một số cơ quan nhà nước trong thể chế hóa, không quan tâm chỉ đạo, kiểm tra cụ thể.
Hai là, tiếp tục thể chế hóa phương thức lãnh đạo của Đảng được xác định trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011), ở tất cả các cấp độ bằng các quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Trong đó, tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình về việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt là đối với hoạt động của Nhà nước. Đảng tiếp tục lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn; nhất là lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách và pháp luật; chú trọng lãnh đạo Nhà nước đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp.
Ba là, phát huy tính độc lập, sáng tạo của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng, nhằm khắc phục triệt để tình trạng “sao chép” nghị quyết của Đảng trong văn bản thể chế hóa, cũng như tình trạng áp đặt của cấp ủy trong công việc này, nhất là đối với những vấn đề có nội dung pháp lý chuyên sâu và có tính kỹ thuật văn bản cao. Quy định cụ thể các tiêu chí thẩm định, thẩm tra dự án, dự thảo các văn bản pháp luật và quy phạm pháp luật về tính phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng; đồng thời, quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong soạn thảo, tham gia soạn thảo các văn bản pháp luật để bảo đảm thể chế hóa kịp thời, chính xác đường lối, chủ trương của Đảng, cũng như bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, chính sách. Đó cũng là cách để phát huy tính độc lập, sáng tạo của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thể chế hóa; đồng thời, tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan quyền lực nhà nước. Cần tiếp tục thể chế hóa để hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở tất cả các cấp, trước hết là các thiết chế trong bộ máy nhà nước ở Trung ương, như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp.
Bốn là, đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ đảng viên, nhất là đối với những đảng viên trong các cơ quan đảng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể chế hóa, tham gia thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng. Trong điều kiện một đảng cầm quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với đặc thù của đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật là đảng viên, thì đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng cần tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu, như gắn chặt chẽ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật với đấu tranh khắc phục triệt để căn bệnh “đảng quyền”, cậy thế đảng cầm quyền, mà coi thường chính quyền, đoàn thể, bất chấp pháp luật. Vì vậy, việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong đội ngũ đảng viên phải hướng trọng tâm vào xây dựng ý thức thượng tôn pháp luật; đảng viên và nhất là người đứng đầu cấp ủy phải có trình độ nhận thức, thái độ, kỹ năng thực thi pháp luật. Cần có sự đánh giá khách quan, toàn diện, chính xác thực trạng ý thức, trình độ hiểu biết pháp luật của đội ngũ đảng viên trong các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, trách nhiệm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng; từ đó, làm cơ sở để xây dựng kế hoạch, chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp, thiết thực. Thực tiễn cho thấy, nâng cao năng lực tuân thủ, chấp hành pháp luật của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thể chế hóa, tham gia thể chế hóa là vô cùng quan trọng, nhất là trong bối cảnh Đảng, Nhà nước cùng nhân dân đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
Năm là, nâng tầm trí tuệ, không ngừng phát triển tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng. Đảng ta ngày càng nhận thức rõ và đề cao vai trò, vị trí của việc phát triển tư duy lý luận, cũng như công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 18-3-2002, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX,“Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”, đã khẳng định: “Phải coi trọng việc tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu lý luận và trong hoạt động của các cấp ủy đảng; coi tổng kết thực tiễn là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành; gắn nghiên cứu thực tiễn Việt Nam với tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của nhân loại”(3). Đại hội XII của Đảng cũng nhấn mạnh: “Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển”(4); “đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(5). Để công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, vấn đề thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng về công tác này cũng là một nhiệm vụ rất quan trọng. Bởi vì, việc thể chế hóa đường lối, chủ trương và định hướng chính sách của Đảng không chỉ giúp cho Đảng ngày càng nâng cao tầm trí tuệ, phát triển tư duy lý luận góp phần nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, mà còn làm cho mỗi cán bộ, đảng viên có điều kiện nâng cao lý luận và trau rồi kiến thức thực tiễn sâu sắc, phong phú và qua đó, tiếp tục thể chế hóa đúng, trúng, sát thực hơn, cụ thể hơn mọi đường lối, chủ trương của Đảng./.
-----------------------
(1), (2), (4), (5) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 210, 216, 200, 201
(3) Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.134 - 135
Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số lần thứ II năm 2020  (04/12/2020)
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Thống nhất: Kinh nghiệm và bài học cho hôm nay  (30/11/2020)
Phụ nữ Việt Nam - những chặng đường vẻ vang dưới cờ Đảng quang vinh  (22/11/2020)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển