Ngành văn hóa Việt Nam - 80 năm dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng
16:50, ngày 11-09-2025
TCCS - Trong chặng đường vẻ vang 80 năm đồng hành cùng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngành văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay, ngành đang tiếp tục phát huy tinh thần đổi mới sáng tạo, nỗ lực hành động để văn hóa thực sự trở thành động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên mới.
Tổng Bí thư Tô Lâm và các đại biểu xem trưng bày ảnh tại Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành văn hoá _Ảnh: TTXVN
Sứ mệnh lịch sử cao quý
Ngay từ những năm 40 của thế kỷ XX, Đảng ta đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của văn hóa, coi văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa đánh đổ chế độ phát xít, thực dân, phong kiến, lập nên chế độ dân chủ cộng hòa. Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo, được thông qua năm 1943, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn lúc bấy giờ, trở thành ánh sáng soi đường và định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động văn hóa cho toàn Ðảng, toàn dân ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, tiến lên xây dựng chế độ mới, nền văn hóa mới. Đề cương đã xác định những vấn đề lý luận cơ bản, định hướng đúng đắn hoạt động tư tưởng và văn hóa nước nhà. Đề cương về văn hóa Việt Nam nêu lên ba nguyên tắc về nền văn hóa Việt Nam: dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng của nô dịch và thuộc địa; làm cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập, tự do và nhân văn); đại chúng hóa (chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại lợi ích của đông đảo quần chúng hoặc xa rời đông đảo quần chúng; văn hóa là của quần chúng, quần chúng nhân dân là người sáng tạo văn hóa); khoa học hóa (chống tất cả cái lạc hậu, phản khoa học, phản tiến bộ; tính chất của nền văn hóa mới Việt Nam)...
Mùa thu năm 1945, ngay sau ngày đất nước giành độc lập, ngành văn hóa được khai sinh như một yêu cầu tất yếu với sứ mệnh lịch sử cao quý và thiêng liêng là giữ gìn hồn cốt dân tộc, hun đúc bản lĩnh, ý chí con người Việt Nam, khơi nguồn sức mạnh tinh thần trên hành trình xây dựng nền tảng tư tưởng mới cho quốc gia, đóng góp cho các chặng đường cách mạng phía trước. Ngày 28-8-1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã ra Tuyên cáo trước quốc dân đồng bào cũng như toàn thế giới về việc thành lập Chính phủ mới, trong đó có Bộ Thông tin, Tuyên truyền - tiền thân của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày nay. Từ đó, ngày 28-8 hằng năm đã trở thành Ngày Truyền thống của ngành văn hóa, thể thao và du lịch.
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc (tháng 11-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra luận điểm: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Luận điểm này đã khẳng định ý nghĩa, vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội, trở thành nguyên tắc chi phối, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá trình phát triển văn hóa Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, phong trào, hoạt động văn hóa không ngừng được triển khai, từ lớp bình dân học vụ đến đội văn công mang lời ca tiếng hát đến chiến khu, văn hóa đã lan tỏa tới từng bản làng, chiến hào, trở thành chất keo gắn kết dân tộc, kết nối triệu triệu trái tim người Việt Nam thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng chung sức đồng lòng vùng dậy chiến đấu, vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh để “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, giải phóng dân tộc khỏi mọi xiềng xích, áp bức.
Trong các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, những trang báo Cứu quốc, tác phẩm văn học, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa…, được lớp lớp thế hệ nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ,… - “những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa” không ngừng sáng tạo giữa mưa bom, bão đạn, trở thành vũ khí sắc bén chống quân thù, đồng thời bồi đắp lòng yêu nước, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc, hun đúc ý chí chiến đấu phi thường trong mỗi người dân đất Việt. Sự nghiệp văn hóa và thông tin được phát triển toàn diện theo định hướng rõ ràng, sâu sắc, bài bản về nội dung chuyên ngành, phương thức hoạt động; về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác văn hóa để tăng cường lực lượng, phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Khi đất nước thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn hóa tiếp tục giữ vai trò nền tảng tinh thần của dân tộc, đi đầu trong hàn gắn vết thương chiến tranh, thúc đẩy tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế; truyền đi tinh thần lạc quan, bảo vệ và làm mới giá trị cốt lõi, tạo thành sợi dây kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai; dự báo và định hướng vấn đề bất cập của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở đường cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, ngành văn hóa tiếp tục giữ vai trò đặc biệt quan trọng, định hướng dư luận cho cải cách kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời không ngừng tiếp thu tinh hoa nhân loại để tự làm mới mình trong dòng chảy thời đại. Ngày 31-7-2007 đánh dấu một bước ngoặt lớn khi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được thành lập, thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên cơ sở sáp nhập Tổng cục Du lịch, Ủy ban Thể dục thể thao; tiếp nhận phần quản lý nhà nước về gia đình từ Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em. Từ ngày 1-3-2025, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp nhận thêm chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản, truyền thông từ Bộ Thông tin và Truyền thông.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã xây dựng đường lối văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn, xuyên suốt các giai đoạn lịch sử cách mạng nước nhà, thực hiện sứ mệnh lịch sử cao quý và thiêng liêng trong việc tạo dựng nền tảng tinh thần của xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh, nguồn lực và động lực cho sự phát triển bền vững đất nước.
Lễ hội khinh khí cầu với chủ đề “Thành phố Di sản - Sắc màu Hạ Long” _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Những dấu ấn vẻ vang
Nối tiếp mạch nguồn truyền thống nghìn năm văn hiến và anh hùng của dân tộc, bám sát quan điểm của Đảng, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 80 năm qua, ngành văn hóa, thể thao và du lịch luôn đồng hành với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc, viết nên bản trường ca rực rỡ, góp phần làm nên 80 mùa thu cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam - nơi bản sắc Việt Nam được hội tụ, kết tinh và tỏa sáng. Với tuyên ngôn hành động “Văn hóa là nền tảng - Thông tin là mạch dẫn - Thể thao là sức mạnh - Du lịch là nhịp cầu kết nối”, ngành văn hóa, thể thao và du lịch đã và đang vươn mình phát triển mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức.
Với sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943), sự nghiệp cách mạng văn hóa dân tộc đã thực sự bước vào giai đoạn lịch sử, trở thành một bộ phận hữu cơ, đồng hành và phục vụ trực tiếp sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc giành độc lập, tự do. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa trở thành vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng, góp phần hiệu triệu, đoàn kết toàn dân đứng lên giành độc lập năm 1945, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc. Khí thế cách mạng của những năm tháng hào hùng ấy lưu dấu ấn sâu đậm trong ca khúc của các nhạc sĩ, như Tiến quân ca (Văn Cao), Diệt phát xít (Nguyễn Đình Thi), Mười chín tháng Tám (Xuân Oanh)... Sau khi nước nhà độc lập, công tác tuyên truyền, cổ động giúp tái thiết đất nước, xóa nạn mù chữ, mở mang dân trí. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), với phương châm “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”, công tác báo chí, thông tin, tuyên truyền được đẩy mạnh. Các loại hình văn nghệ, như ca khúc cách mạng, thơ ca, kịch nói..., ra đời, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu của quân và dân ta.
Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những người làm công tác văn hóa đã không quản gian khó, hy sinh, lan tỏa sức mạnh tinh thần, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc với Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), các tác phẩm văn học, nghệ thuật đã phản ánh cuộc sống chiến đấu, lao động, sản xuất ở miền Bắc và ý chí quật cường đấu tranh của đồng bào miền Nam. Nhiều văn nghệ sĩ, nhà báo - “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa - tư tưởng” lên đường chi viện cho chiến trường miền Nam với khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu), sẵn sàng “lấy bút làm gươm”, “lấy nghệ thuật làm vũ khí”, sáng tác nên các tác phẩm thơ ca, âm nhạc, kịch, hội họa, điện ảnh, báo chí..., mang đậm hơi thở cuộc sống, chiến đấu, phản ánh ý chí kiên cường, lòng dũng cảm và niềm tin vào thắng lợi của nhân dân. Phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” đã thôi thúc quân và dân ta chiến đấu và giành thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với Đại thắng Mùa Xuân năm 1975. Có thể khẳng định, ngành văn hóa đã góp phần to lớn cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta viết nên bản trường ca vĩ đại của dân tộc trong thế kỷ XX.
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, toàn ngành tập trung phát triển đời sống văn hóa ở cơ sở, mở rộng phong trào văn hóa quần chúng, xây dựng thiết chế văn hóa từ Trung ương đến địa phương, ban hành Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh... Văn học có nhiều sáng tác mới; sân khấu, âm nhạc, điện ảnh phát triển với nhiều tác phẩm tiêu biểu; báo chí, xuất bản được thống nhất và mở rộng; phong trào thể dục, thể thao, hoạt động mỹ thuật, tranh cổ động,... đều tích cực phục vụ nhiệm vụ chính trị và đời sống của nhân dân.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước năm 1986 đã mở ra bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển văn hóa Việt Nam. Cùng với việc chuyển đổi kinh tế từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, công tác quản lý văn hóa cũng có nhiều thay đổi để phù hợp với tình hình mới.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (năm 1998) là Nghị quyết chuyên đề có ý nghĩa đột phá trong quá trình phát triển văn hóa Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội...; chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Nghị quyết cũng chỉ rõ sự gắn bó chặt chẽ giữa văn hóa và kinh tế - xã hội, văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế; nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế - xã hội, pháp luật, kỷ cương... trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất cho phát triển. Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII), trước yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (năm 2014) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã được ban hành với mục tiêu tổng quát là xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại hội XIII của Đảng bổ sung rõ hơn về khâu đột phá chiến lược thứ hai là: “Phát triển toàn diện nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao...; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1). Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng được tổ chức ngày 24-11-2021 - Hội nghị đầu tiên sau 75 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất năm 1946 - đã tạo sự lan tỏa, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự nghiệp phát triển đất nước trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hóa còn thì Dân tộc còn”(2).
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, sâu sát, kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã bám sát và triển khai đồng bộ, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với tinh thần “3 Quyết tâm, 4 Chủ động, 5 Hiệu quả”. Tại Kỳ họp thứ 8, ngày 27-11-2024, Quốc hội thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035 với rất nhiều chính sách mới, khơi thông nguồn lực, kiến tạo cho văn hóa, thể thao và du lịch phát triển nhanh, bền vững. Hiện nay, ngành văn hóa, thể thao và du lịch cả nước đang đoàn kết, sáng tạo, phấn đấu hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Trong nhiệm kỳ 2021 - 2026, ngành văn hóa, thể thao và du lịch đạt được nhiều kết quả quan trọng, nổi bật.
Về hoàn thiện thể chế, xây dựng, ban hành văn bản chỉ đạo, văn bản quy phạm pháp luật: Trong giai đoạn 2021 - 2026, ngành văn hóa, thể thao và du lịch đã quyết liệt thay đổi tư duy từ “làm văn hóa sang quản lý nhà nước về văn hóa” thông qua pháp luật. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chủ động rà soát, nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền hoàn thiện thể chế, chính sách, xử lý nhiều “điểm nghẽn, khoảng trống về mặt pháp lý”, thúc đẩy phát triển theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Theo đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì xây dựng, ban hành, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành, hoàn thiện 124 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có 5 luật, 31 nghị định, 1 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 88 thông tư, thông tư liên tịch; thực hiện hoạt động kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật hằng năm, góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của tổ chức, cá nhân; khắc phục sơ hở, bất cập, điểm nghẽn của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ.
Về văn hóa: Ngành đạt nhiều thành tựu to lớn. Nhiều mô hình xây dựng môi trường văn hóa gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trong gia đình, dòng họ, làng xã, khu dân cư, tổ dân phố, cơ quan báo chí, doanh nghiệp, doanh nhân được hình thành, phát triển và lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng; đã và đang hình thành hệ sinh thái văn hóa thống nhất trong đa dạng, cùng hội tụ và tỏa sáng giá trị nhân văn, cốt lõi của dân tộc.
Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ngày càng được chú trọng. Hệ thống di sản văn hóa Việt Nam được thế giới biết đến sâu rộng. Hiện nay, cả nước có hơn 40.000 di tích và gần 70.000 di sản văn hóa phi vật thể được kiểm kê, trong đó có 36 di sản được UNESCO công nhận/ghi danh. Bên cạnh việc thực hiện nghiêm quy định của pháp luật và cam kết với UNESCO, chúng ta đã quan tâm đầu tư, tu bổ di tích; khai thác hiệu quả, gắn kết với phát triển du lịch, góp phần phát triển kinh tế - xã hội các địa phương.
Bên cạnh đó, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở được vận hành ngày càng hiệu quả hơn. Công tác quản lý nhà nước về lễ hội được tăng cường; việc thanh tra, kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi tổ chức lễ hội được đẩy mạnh. Xây dựng đạo đức, lối sống con người Việt Nam được triển khai lồng ghép trong việc xây dựng, thực hiện Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình; phong trào xây dựng con người mới với chuẩn mực cụ thể của từng ngành, từng địa phương được triển khai, cụ thể hóa 5 đức tính cơ bản của con người Việt Nam thành chuẩn mực, đặc trưng phù hợp với từng ngành, từng địa phương.
Công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số được đẩy mạnh. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành các đề án, như “Bảo tồn, phát huy giá trị dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch giai đoạn 2021 - 2030”; “Tổ chức định kỳ ngày hội, liên hoan văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc theo khu vực và toàn quốc đến năm 2035”; “Bảo tồn, phục dựng và phát huy giá trị dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch giai đoạn 2021 - 2030”…; thực hiện dự án chuyển đổi số nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của 54 dân tộc Việt Nam, tạo môi trường giáo dục, tra cứu thông tin văn hóa và phát triển du lịch.
Các ngành công nghiệp văn hóa, như điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, văn học, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm…, ngày càng được chú trọng phát triển, đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Công nghiệp văn hóa đang trở thành xu hướng và được xác định là ngành đóng góp quan trọng vào tăng trưởng của đất nước. Giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đóng góp bình quân đạt khoảng 1,059 triệu tỷ đồng (44 tỷ USD). Tốc độ tăng trưởng về số lượng cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa bình quân 5 năm đạt khoảng 7,2%/năm. Lực lượng lao động thuộc các ngành công nghiệp văn hóa tăng khá nhanh, bình quân 5 năm lực lượng lao động tăng 7,4%/năm. Ngành công nghiệp giải trí, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa, phát thanh truyền hình, trò chơi điện tử,… phát triển nhanh, đóng góp gần 4,4% GDP. Bảo vệ quyền tác giả được tăng cường, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ văn hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Công tác văn hóa đối ngoại và hội nhập quốc tế cũng đạt nhiều kết quả nổi bật, chuyển mạnh từ “giao lưu” sang “hợp tác đích thực”, chỉ tính riêng 5 năm qua, có 54 điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế được ký kết, làm cơ sở thiết lập và mở rộng hợp tác văn hóa, thể thao và du lịch với các nước, tạo tiền đề quan trọng để chủ động, đột phá trong hội nhập quốc tế, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới.
Về thể dục, thể thao: Có nhiều chuyển biến rõ rệt, theo hướng đẩy mạnh phát triển thể dục, thể thao trong từng đối tượng, đặc biệt là học sinh, sinh viên, lực lượng vũ trang, nông dân, người cao tuổi. Phong trào tập luyện thể dục, thể thao diễn ra sôi nổi trong cả nước với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, số lượng người tập thể dục, thể thao thường xuyên và số câu lạc bộ thể dục, thể thao ngày càng tăng. Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, tinh thần “Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” tiếp tục được đẩy mạnh, lan tỏa, tạo phong trào rèn luyện thể dục, thể thao sôi nổi trong nhân dân. Thể thao thành tích cao tiếp tục đạt được nhiều tiến bộ hơn, kết quả thi đấu của các môn thể thao trọng điểm, có thế mạnh tại kỳ đại hội thể thao và giải thể thao cấp khu vực, châu lục và thế giới có sự khởi sắc rõ rệt. Đây cũng là nguồn cảm hứng, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, góp phần làm nên những thành tựu trong công cuộc đổi mới đất nước.
Về du lịch: Giai đoạn 2021 - 2024, du lịch Việt Nam đón 33,7 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ 359,5 triệu lượt khách du lịch nội địa; tổng thu từ khách du lịch đạt 2.193 nghìn tỷ đồng. Năm 2025, ngành du lịch đặt mục tiêu đón được từ 22 triệu - 23 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ từ 120 triệu - 130 triệu lượt khách nội địa, tổng thu từ khách du lịch đạt khoảng 980 - 1.050 nghìn tỷ đồng. Nhiều sản phẩm du lịch mới ra đời, thị thực điện tử mở rộng. Du lịch Việt Nam trở thành điểm sáng trong bức tranh kinh tế đất nước sau đại dịch COVID-19, đóng góp thực chất cho phục hồi và tăng trưởng kinh tế, trung bình từ 6% - 8% GDP/năm. Nhiều năm qua, Việt Nam được vinh danh là điểm đến hàng đầu về du lịch ở châu Á và thế giới. Du lịch ngày nay không chỉ là cầu nối đưa bản sắc Việt Nam vươn ra thế giới, mà còn là hành trình tiếp nhận tinh hoa nhân loại, để văn hóa Việt Nam hội tụ và tỏa sáng trong dòng chảy văn hóa toàn cầu.
Về báo chí và truyền thông: Tiếp tục thực hiện tốt chức năng là diễn đàn, tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân; là lực lượng nòng cốt, tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; luôn đóng vai trò tiên phong “Đi trước mở đường - Đi cùng thực hiện - Đi sau tổng kết”, giữ sứ mệnh đặc biệt quan trọng như một “Mạch dẫn tri thức - Kết nối niềm tin” giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân trong kỷ nguyên mới của đất nước. Báo chí và xuất bản từng bước trở thành một phần quan trọng của các ngành công nghiệp văn hóa, phát triển ngày càng lành mạnh, chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại.
Với những thành tích xuất sắc đạt được trong 80 năm qua, ngành văn hóa đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý, như Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh...
Du khách thăm miền quan họ _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Hướng tới kỷ nguyên mới
Văn hóa hôm nay không chỉ là dòng chảy tiếp nối của quá khứ, mang hồn cốt dân tộc, mà còn là hành trình sáng tạo không ngừng với sức sống hiện đại trong kỷ nguyên số. Trước bước chuyển mình mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực của đất nước hiện nay, nhất là khi thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, ngành văn hóa, thể thao và du lịch cũng như toàn xã hội càng cần có quyết tâm, khát vọng cống hiến, nỗ lực sáng tạo và bứt phá hơn nữa trong triển khai một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm sau:
Về nhiệm vụ trọng tâm
Một là, đổi mới tư duy lãnh đạo, quản lý, nâng cao nhận thức, tăng cường hành động phát triển văn hóa, thể thao và du lịch. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền về vai trò của ngành văn hóa, thể thao và du lịch. Gắn mục tiêu, nhiệm vụ phát triển của ngành với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các cấp, ngành, địa phương.
Hai là, tổ chức quán triệt, cụ thể hóa và triển khai hiệu quả các nghị quyết của Đảng trên các lĩnh vực của ngành. Rà soát, bổ sung, điều chỉnh, hệ thống, đồng bộ hóa chính sách của ngành với triển khai các Nghị quyết của Bộ Chính trị - “bộ tứ trụ cột”: Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”; Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24-01-2025, của Bộ Chính trị “Về hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30-4-2025, của Bộ Chính trị “Về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”; Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4-5-2025, của Bộ Chính trị “Về phát triển kinh tế tư nhân”.
Ba là, triển khai nhiệm vụ với tinh thần chủ động, nghiêm túc, quyết liệt, linh hoạt theo phương châm “6 rõ” (rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian, rõ phân cấp và rõ kết quả). Cải thiện năng lực quản lý nhà nước của cục/vụ gắn với chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính và bảo đảm sự đoàn kết, ổn định trong cơ quan, đơn vị theo đúng phương châm của Bộ đề ra từ đầu nhiệm kỳ - “Quyết liệt hành động, khát vọng cống hiến”. Theo dõi chặt chẽ, nắm chắc diễn biến mới, bám sát thực tiễn, phản ứng chính sách kịp thời, chính xác, quyết liệt, linh hoạt, hiệu quả.
Bốn là, tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, tương thích với pháp luật liên quan, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh quan hệ xã hội; phát hiện kịp thời “điểm nghẽn”, “nút thắt” cản trở sự phát triển, khoảng trống pháp lý để tham mưu, trình cấp có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi, phê duyệt theo hướng “kiến tạo”, “khơi thông nguồn lực”, “chuyển hóa giá trị văn hóa thành nguồn lực, động lực cho sự phát triển”; quyết tâm đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật. Trọng tâm cải cách thể chế văn hóa theo hướng thích ứng với vai trò kiến tạo phát triển văn hóa, xây dựng con người, tôn trọng quy luật, thị trường văn hóa, tôn trọng chủ thể văn hóa, tạo sức mạnh tổng hợp, hệ sinh thái văn hóa, văn hóa số.
Năm là, tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường phân cấp, phân quyền; từng bước chuyển từ quản lý sang quản trị; gắn với trách nhiệm của người đứng đầu; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành văn hóa, thể thao và du lịch có phẩm chất, năng lực, có tầm nhìn xa, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Về một số giải pháp
Một là, tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức, thực hiện nghiêm, hiệu quả quy định của pháp luật, nghị quyết, văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về các lĩnh vực hoạt động của văn hóa, thể thao và du lịch. Phát huy vai trò, trách nhiệm người đứng đầu ở từng cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, địa phương trong phát triển văn hóa, thể thao và du lịch. Huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân cùng toàn ngành văn hóa, thể thao và du lịch để khơi dậy, phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng cống hiến, khát khao sáng tạo của người dân, đặc biệt là giới trẻ; gắn bó mật thiết với địa phương, cơ sở, xuất phát từ thực tế sinh động, lấy người dân làm trung tâm, hiệu quả thực tiễn làm thước đo cho hoạt động của toàn ngành.
Hai là, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ chủ trương của Đảng về văn hóa, thể thao và du lịch; tăng cường phân cấp, phân quyền, phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương, nhằm khơi thông mọi nguồn lực để địa phương xây dựng và phát triển các lĩnh vực của ngành; ưu tiên thể chế hóa hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch trên môi trường số, trong mối tương quan với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Rà soát, thể chế hóa, đồng bộ hóa, tương thích hóa chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật về văn hóa, thể thao và du lịch và pháp luật liên quan, nhất là quy hoạch, chiến lược, chương trình lớn của ngành văn hóa, thể thao và du lịch, hệ thống pháp luật liên quan với tư duy mới, phù hợp thực tiễn. Có cơ chế, chính sách đặc thù trong phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng tài năng văn hóa, nghệ thuật gắn với trọng dụng và phát huy tài năng trong sáng tạo nghệ thuật, giải phóng sức sáng tạo về văn hóa trong không gian số, môi trường số, kinh tế số, xã hội số.
Ba là, hoàn thiện việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, ổn định hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đồng bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ với nâng cao năng lực quản lý, quản trị ngành văn hóa, thể thao và du lịch theo hướng thông minh, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Có chính sách thu hút tài năng nghệ thuật, thể thao, nhân lực sáng tạo văn hóa, nghệ thuật, truyền thông, khuyến khích đổi mới sáng tạo và có biện pháp xử lý cán bộ né tránh, sợ trách nhiệm.
Bốn là, tập trung xây dựng hạ tầng, chuyển đổi số tạo nền tảng đột phá phát triển trong kỷ nguyên mới. Triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035, quy hoạch hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao, du lịch, báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, xuất bản; hình thành hệ thống hạ tầng của ngành đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở và công trình tầm vóc quốc gia, dấu ấn kỷ nguyên mới. Tập trung phân bổ, quản lý và sử dụng ngân sách hiệu quả trên tinh thần tiết kiệm và đầu tư trọng tâm, trọng điểm. Xây dựng chính sách, pháp luật, tạo hành lang pháp lý, không gian phát triển theo hướng kiến tạo, hỗ trợ thúc đẩy sáng tạo nội dung số, hình thành và khai thác hiệu quả hệ thống cơ sở dữ liệu về văn hóa kết nối với hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia; khai thác, phát huy tài sản văn hóa đặc thù, tài sản văn hóa số; hình thành không gian sáng tạo nội dung số, môi trường sáng tạo cho cộng đồng doanh nghiệp, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên mới./.
-------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 54
(2) Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản số 979, tháng 12-2021, tr. 3