Nắm vững tư tưởng chỉ đạo, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại

TS. PHAN VĂN GIANG
Đại tướng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

11:22, ngày 05-01-2023

TCCS - Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại là chủ trương đúng đắn, nhất quán, thể hiện tư duy mới, tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, bảo đảm Quân đội đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, nhưng trước hết và chủ yếu là của cấp ủy, chỉ huy các cấp và cán bộ, chiến sĩ toàn quân.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan mô hình sản phẩm vũ khí, khí tài tại Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022 _Ảnh: TTXVN

Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân cách mạng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, được Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh thành lập, giáo dục, rèn luyện. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn xác định mục tiêu, phương hướng xây dựng Quân đội đáp ứng yêu cầu củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm, đường lối về quân sự, quốc phòng của Đảng qua các kỳ đại hội, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại. Đây là chủ trương nhất quán, đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng. Thực hiện thắng lợi chủ trương này là yếu tố quyết định bảo đảm cho Quân đội ta có đủ sức mạnh, hoàn thành tốt vai trò là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu, phương hướng xây dựng Quân đội, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tổ chức, biên chế Quân đội ta được điều chỉnh phù hợp với đặc điểm, tình hình của đất nước, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam mỗi thời kỳ.

Ngay sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và chiến tranh bảo vệ biên giới, nhiều đơn vị cấp chiến dịch, chiến thuật đã được điều chỉnh sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Đặc biệt, từ năm 2016 đến nay, toàn quân chủ động điều chỉnh tổ chức; giảm biên chế quân số cơ quan cấp chiến lược, chiến dịch, giảm đầu mối trung gian và đơn vị phục vụ, bảo đảm; ưu tiên quân số cho các đơn vị sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; đầu tư thích đáng cho các quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sửa chữa quốc phòng; điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế của một số học viện, nhà trường trong Quân đội,...

Công tác huấn luyện, giáo dục, đào tạo có nhiều đổi mới theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu ở tất cả các cấp, bảo đảm an toàn khu vực đóng quân và sẵn sàng xử lý các tình huống về quân sự, quốc phòng. Công tác hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng và các mặt công tác khác có bước phát triển mới; đặc biệt, đã nghiên cứu, làm chủ hầu hết vũ khí, trang bị, nhất là vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại, góp phần tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng. Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng được triển khai tích cực, chủ động, linh hoạt, thực chất và hiệu quả; trở thành một trong những bộ phận quan trọng trong hoạt động đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng lòng tin, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực, nâng cao hình ảnh, vị thế đất nước, Quân đội trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và trên trường quốc tế. Kết quả trên là tiền đề rất quan trọng để tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, tạo tiền đề vững chắc để phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Những năm tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng tiếp tục có những diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, nhất là tranh chấp chủ quyền biển, đảo,... diễn ra phức tạp, quyết liệt. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm xuất hiện nhiều loại vũ khí mới, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao, chiến tranh phi tiếp xúc ngày càng phổ biến. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh, an toàn không gian mạng, khủng bố, tội phạm, thiên tai, dịch bệnh,... ngày càng phức tạp.

Đối với nước ta, sau 36 năm đổi mới, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc gia trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao, tạo tiền đề quan trọng để phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, nước ta vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội,... với những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó nhận diện. Tình hình trên đặt ra những yêu cầu mới đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, nhất là chủ trương xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Để hiện thực hóa chủ trương xây dựng Quân đội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân cần quán triệt sâu sắc, thực hiện có hiệu quả một số nội dung, giải pháp cơ bản sau:

Một là, kiên định nguyên tắc xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, giữ vững bản chất cách mạng, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu.

Đây là vấn đề cơ bản, nguyên tắc bất di, bất dịch quyết định bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc của Quân đội; bảo đảm trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Việc xây dựng Quân đội phải toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và trong mọi nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, lao động sản xuất, công tác. Trong đó, phải đặc biệt quan tâm xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, vì: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”(1). Do đó, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, hiện đại phải bảo đảm tinh gọn về tổ chức, nâng cao chất lượng về mọi mặt, phải thường xuyên coi trọng giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong toàn quân.

Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo định hướng tư tưởng, quán triệt nhiệm vụ, xác định động cơ, ý chí, quyết tâm cao trong thực hiện nhiệm vụ; tổ chức tốt các phong trào thi đua, các cuộc vận động và xây dựng môi trường văn hóa quân sự thời kỳ mới tiến bộ, lành mạnh, tạo sự đoàn kết, thống nhất, đồng thuận trong toàn quân. Thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, tập trung vào kiểm tra những dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hoàn thành nhiệm vụ thấp..., góp phần giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương. Làm tốt công tác bảo vệ an ninh, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, ngăn ngừa, đẩy lùi các hành vi tiêu cực, tư tưởng xấu, độc, làm trong sạch nội bộ Quân đội. Lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ công tác dân vận với những mô hình, cách làm sáng tạo, thiết thực, góp phần làm tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, thắt chặt mối quan hệ đoàn kết quân - dân. Chú trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ.

Huấn luyện sẵn sàng chiến đấu tại Lữ đoàn 172, Vùng 3 Hải quân _Nguồn: baohaiquanvietnam.vn

Hai là, thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao; đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Đây là một trong những đột phá chiến lược, có ý nghĩa quyết định, bảo đảm để Quân đội tiến lên hiện đại. Việc xây dựng nguồn nhân lực cần chú trọng cả về số lượng và chất lượng. Tập trung phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học quân sự, các chuyên gia đầu ngành, giảng viên ở các học viện, nhà trường, cán bộ các viện nghiên cứu trong Quân đội. Quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ quân sự, chính trị chất lượng cao; xây dựng đội ngũ cán bộ hậu cần, kỹ thuật có trình độ, năng lực chuyên môn sâu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Có chính sách phù hợp để thu hút, phát triển và trọng dụng nhân tài đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Cùng với đó, phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện - đào tạo ở các nhà trường trong Quân đội; tạo nguồn cán bộ các cấp có đủ phẩm chất cách mạng, tư duy, năng lực chuyên môn, trình độ chỉ huy, quản lý,... theo chức trách. Xây dựng nhà trường, viện nghiên cứu tinh, gọn, mạnh, hiện đại; gắn đào tạo cán bộ ở nhà trường với đào tạo, bồi dưỡng ở đơn vị; gắn nhà trường với chiến trường; gắn lý luận với thực tiễn theo phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”; kế thừa nghệ thuật quân sự độc đáo của ông cha ta trong đánh giặc giữ nước và tinh hoa nghệ thuật quân sự thế giới; gắn trách nhiệm của cấp ủy, người chỉ huy với kết quả huấn luyện của đơn vị. Việc tổ chức huấn luyện phải chặt chẽ, linh hoạt, đúng quan điểm, nguyên tắc, các mối kết hợp; chú trọng truyền thụ kinh nghiệm thực tiễn, nâng cao năng lực thực hành, làm chủ vũ khí, trang bị khí tài mới, hiện đại, sức cơ động và khả năng tác chiến trong điều kiện mới cho các đối tượng. Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ mô phỏng, các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong huấn luyện bộ đội và quản lý, điều hành các hoạt động giáo dục, đào tạo.

Ba là, tiếp tục triển khai có hiệu quả đột phá về tổ chức và trang bị.

Đây là một trong những nội dung rất quan trọng, góp phần tạo nên sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Quân đội. Để giải quyết tốt vấn đề này, trước hết, cần tập trung quán triệt sâu sắc, triển khai thực hiện nghiêm, có hiệu quả Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17-1-2022, của Bộ Chính trị, “Về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo”,... Từng cấp chủ động xây dựng kế hoạch tổng thể, phương pháp tiến hành chặt chẽ, khoa học, với lộ trình, bước đi phù hợp, điều chỉnh tăng, giảm tổ chức, quân số của từng khối phù hợp với đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, khả năng bảo đảm vũ khí, trang bị, giữ vững và phát huy truyền thống của Quân đội, nghệ thuật quân sự Việt Nam. Xây dựng, điều chỉnh tổ chức quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, có cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần lực lượng; giảm đầu mối trung gian và đơn vị bảo đảm, phục vụ; tổ chức một số đơn vị dự bị chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, bảo đảm Quân đội có đủ khả năng làm nòng cốt cùng toàn dân hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

Tiếp tục đầu tư mua sắm một số loại vũ khí, trang bị mới, hiện đại; cải tiến, hiện đại hóa một số vũ khí hiện có, nâng cao tính năng kỹ, chiến thuật của các loại vũ khí, trang bị. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật làm chủ các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật, tạo bước đột phá trong khai thác, làm chủ vũ khí công nghệ cao, từng bước sản xuất vật tư kỹ thuật và vũ khí, trang bị nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ khác của Quân đội. Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế và ứng dụng thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào công tác quản lý, khai thác, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật, nhất là vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, công nghệ cao. Thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”, tạo sự lan tỏa sâu rộng trong toàn quân.

Bốn là, tăng cường xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, tạo chuyển biến toàn diện, vững chắc về chấp hành kỷ luật của Quân đội, pháp luật của Nhà nước.

Việc thực hiện chính quy hóa Quân đội là nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động trong mọi hoạt động, công tác của bộ đội và các đơn vị trong toàn quân. Trong đó, xây dựng nền nếp chính quy và duy trì kỷ luật là hai yếu tố quan trọng tạo nên chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta. Đây là một nội dung rộng lớn, gồm nhiều vấn đề, liên quan tới mọi quân nhân, đòi hỏi các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu và các văn bản có liên quan về xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, cùng với những bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn chỉ huy, quản lý bộ đội để có chủ trương, giải pháp phù hợp. Nội dung xây dựng chính quy phải toàn diện, song có trọng tâm, trọng điểm, đột phá vào những khâu yếu, mặt yếu; nâng cao trình độ chính quy trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; quản lý con người và vũ khí, trang bị kỹ thuật. Kết hợp chặt chẽ xây dựng chính quy với chấp hành kỷ luật của Quân đội, pháp luật của Nhà nước; hạn chế tối đa các vụ vi phạm nghiêm trọng, mất an toàn trong huấn luyện.

Coi trọng, làm tốt công tác giáo dục, xây dựng động cơ, ý chí quyết tâm, tính tự giác của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, quy định của Quân đội, đơn vị; gắn giáo dục chính trị, pháp luật với các biện pháp hành chính và xử lý liên đới trách nhiệm của cán bộ. Từng cơ quan, đơn vị thường xuyên rà soát, đánh giá tình hình, kết quả xây dựng chính quy, chấp hành pháp luật, kỷ luật, kịp thời rút kinh nghiệm để có chủ trương, giải pháp lãnh đạo, tổ chức thực hiện thiết thực, hiệu quả; duy trì nền nếp, chế độ sinh hoạt, học tập, công tác, quản lý tốt các mối quan hệ xã hội của quân nhân. Chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp phân đội có đủ phẩm chất, năng lực chỉ huy, quản lý, giáo dục bộ đội.

Thực hiện tốt các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng trong thực hiện chính quy, rèn luyện kỷ luật, quản lý tư tưởng bộ đội; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh, dứt điểm các sai phạm ngay từ cơ sở, không để sai phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn. Gắn xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu” với xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của bộ đội. Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa quân sự tốt đẹp, lành mạnh, phong phú; chủ động đấu tranh phòng, chống các tác động tiêu cực và văn hóa xấu, độc. Đồng thời, thực hiện tốt nhiệm vụ hậu cần và các mặt công tác khác, bảo đảm tốt cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng đơn vị và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội.

Năm là, xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đạt trình độ tiên tiến, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu xây dựng Quân đội hiện đại, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng... hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội”(2); Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 26-1-2022, về “Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo”. Theo đó, thời gian tới, cần tiếp tục xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đạt trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại, có quy mô, tổ chức, cơ chế quản lý và hoạt động phù hợp; phát huy tốt vai trò, trách nhiệm và sự tham gia tích cực, hiệu quả của các thành phần kinh tế, góp phần nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước. Phát triển công nghiệp quốc phòng gắn với công nghiệp quốc gia và có cơ cấu hợp lý trong tổng thể nền công nghiệp quốc gia, ưu tiên hướng tới những công nghệ hiện đại, hiệu quả cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang nhân dân.

Để đạt được mục tiêu nêu trên, cần sớm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp quốc phòng dài hạn, trung hạn, phù hợp với điều kiện mới. Ưu tiên phát triển các ngành, sản phẩm công nghiệp cơ bản, có tính lưỡng dụng cao. Đầu tư xây dựng có trọng điểm một số cơ sở công nghiệp quốc phòng có công nghệ tiên tiến, làm nòng cốt xây dựng các tập đoàn, tổ hợp công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng, công nghệ cao, có nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất và bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự. Trước mắt, tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng với quy mô, tổ chức, cơ chế quản lý phù hợp, phát huy vai trò, trách nhiệm tự chủ của các cơ sở công nghiệp quốc phòng. Kiện toàn tổ chức ngành kỹ thuật theo hướng “tinh, gọn, mạnh, thống nhất”, phù hợp với tính năng công nghệ của vũ khí, trang bị kỹ thuật và nhiệm vụ của từng cấp; bảo đảm công tác quản lý, chỉ huy, chỉ đạo thông suốt, không chồng chéo. Đổi mới phương thức bảo đảm kỹ thuật đối với vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới, công nghệ cao theo hướng tập trung, thống nhất; đổi mới tư duy sản xuất vật tư kỹ thuật theo hướng mở rộng liên doanh, liên kết, xã hội hóa,...

Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hoàng Xuân Chiến và Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc Jean-Pierre Lacroix cùng các đại biểu tham quan triển lãm ảnh về phụ nữ với hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc _Ảnh: TTXVN

Sáu là, nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng.

Đối ngoại quốc phòng là bộ phận quan trọng của ba trụ cột: đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, nhằm quán triệt, cụ thể hóa đường lối đối ngoại của Đảng, góp phần duy trì hòa bình, ổn định để thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế. Thông qua công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, cần tiếp tục xây dựng lòng tin, nâng cao vị thế, uy tín của Quân đội trên trường quốc tế; đồng thời, tận dụng, huy động các nguồn lực từ bên ngoài, cập nhật, thích ứng và chuẩn hóa các tiêu chuẩn quốc tế về con người, tổ chức, biên chế, huấn luyện, đào tạo và vũ khí, trang bị, đặc biệt là công tác chỉ huy, hiệp đồng, tác chiến trong môi trường hoạt động khắc nghiệt để phục vụ sự nghiệp hiện đại hóa, xây dựng Quân đội đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

Trên cơ sở quán triệt, thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng phải được tiến hành tích cực, chủ động, không ngừng đổi mới, linh hoạt, sáng tạo, tập trung tham mưu, đề xuất giải quyết quan hệ hợp tác quốc phòng với các đối tác, thực hiện mục tiêu chiến lược và đáp ứng lợi ích quốc gia - dân tộc. Thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương, đa phương đi vào chiều sâu, thực chất, ổn định, hiệu quả; ưu tiên quan hệ, hợp tác với các nước láng giềng, các nước ASEAN, bạn bè truyền thống, bảo đảm cân bằng giữa các nước lớn. Mở rộng quan hệ hợp tác với các nước có tiềm năng; giải quyết tốt các mối quan hệ hợp tác quốc phòng, góp phần tăng cường sự tin cậy chính trị, thúc đẩy chiều sâu quan hệ, gia tăng đan xen lợi ích chiến lược với các nước,... Tích cực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở các nội dung và địa bàn phù hợp, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Quân đội trên trường quốc tế. Đẩy nhanh tiến độ đàm phán, ký kết các điều ước, thỏa thuận quốc tế, bản ghi nhớ với các đối tác về hợp tác quốc phòng, kỹ thuật quân sự. Xây dựng, triển khai Chiến lược hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo, tạo môi trường thuận lợi để bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa./.

-------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 217
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 158 - 159