Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng trong Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện nay
TCCS - Hiện nay, trước đòi hỏi của công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ, công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng trong toàn lực lượng cần được tăng cường, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả toàn diện về mọi mặt, để xây dựng đội ngũ Công an nhân dân “Tuyệt đối trung thành, Tận tụy...”, như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1- Kiểm tra, giám sát vừa là chức năng lãnh đạo, vừa là phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng, cũng là bộ phận trọng yếu của công tác xây dựng Đảng. Công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng của từng giai đoạn cách mạng, góp phần nâng cao phương thức cầm quyền, năng lực lãnh đạo của Đảng; đóng góp tích cực vào việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Đại hội XII của Đảng xác định: “Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng”(1) là một trong những phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Thực hiện phương châm “giám sát phải mở rộng”, “kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm”, xem xét xử lý kỷ luật “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, với tinh thần quyết liệt, chủ động, cấp ủy, ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp trong Đảng bộ Công an Trung ương đã tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng một cách toàn diện, đồng bộ, thống nhất, xuyên suốt, bảo đảm nguyên tắc, quy trình, quy định.
Nhiệm kỳ 2010 - 2015, cấp ủy, ban thường vụ và UBKT các cấp trong Đảng bộ Công an Trung ương đã tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 148 đảng viên và 34 tổ chức đảng (TCĐ); tiến hành kiểm tra chuyên đề 1.199 TCĐ và 1.182 đảng viên; giám sát chuyên đề 713 TCĐ và 975 đảng viên. Qua kiểm tra, đã phát hiện những khuyết điểm, sai phạm của TCĐ và đảng viên, thi hành kỷ luật đối với 6 TCĐ và 929 đảng viên. Từ đầu nhiệm kỳ 2015 - 2020 đến nay, cấp ủy, UBKT các cấp trong Đảng bộ đã kiểm tra, giám sát chuyên đề đối với 106 TCĐ, 1.301 đảng viên.
Nội dung kiểm tra chủ yếu tập trung vào công tác lãnh đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” và Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết nội bộ, thực hiện Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 1-11-2011, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều đảng viên không được làm”; thực hiện nghị quyết của Đảng trên lĩnh vực an ninh, trật tự; về trách nhiệm nêu gương; việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tiến hành xem xét thi hành kỷ luật đối với 727 đảng viên và 2 TCĐ, trong đó có 24 đồng chí là cấp ủy viên các cấp. Kết quả xử lý kỷ luật bằng các hình thức: khiển trách: 466 đảng viên; cảnh cáo: 208 đảng viên; khai trừ: 53 đảng viên. Nội dung vi phạm của đảng viên chủ yếu là vi phạm nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, quy chế làm việc, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết nội bộ, vi phạm quy định 19 điều đảng viên không được làm; vi phạm trong hoạt động điều tra và trong việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; vi phạm quy chế, quy trình công tác; sử dụng bằng giả; vi phạm chính sách dân số; cá biệt có trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng; sử dụng trái phép chất ma túy...
Đạt được kết quả đó là do Đảng ủy Công an Trung ương đã kịp thời ban hành các nghị quyết, chương trình công tác của nhiệm kỳ(2), hằng năm quyết định ban hành chương trình công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nghiêm túc; kịp thời ban hành quy chế, quy định, quy trình, hướng dẫn phục vụ công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng trong Đảng bộ Công an Trung ương(3). Cấp ủy, TCĐ các cấp đã nghiêm túc quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền để lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả công tác này. Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương và UBKT các cấp trong Công an nhân dân (CAND) đã thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý kỷ luật TCĐ, đảng viên vi phạm còn chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, khuyết điểm, vi phạm kỷ luật trong nội bộ. Nhiều khuyết điểm, vi phạm của TCĐ, đảng viên chậm được phát hiện, thậm chí không được phát hiện để kiểm tra, xử lý nên kỷ cương, kỷ luật ở một số TCĐ chưa nghiêm; một số cấp ủy thiếu sự đoàn kết, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, buông lỏng lãnh đạo dẫn đến vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật, tác động tiêu cực đến công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng CAND.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém trên đây do nhận thức của một số cấp ủy, TCĐ, đảng viên về vị trí, vai trò, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng chưa đầy đủ; việc xây dựng nghị quyết, chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, UBKT còn lúng túng, thiếu khoa học; việc nghiên cứu, quán triệt học tập, áp dụng các quy chế, quy định, quy trình của Trung ương và UBKT cấp trên chưa đạt chất lượng cao, thậm chí thiếu quy chế, quy định để áp dụng; hiệu quả công tác phối hợp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát còn thấp; công tác tuyên truyền, thông tin, phổ biến về kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả; tổ chức bộ máy làm công tác kiểm tra chưa thống nhất, hiệu lực, hiệu quả; việc kiện toàn UBKT, cơ quan UBKT các cấp còn chậm, lúng túng, chưa có quy trình thực hiện, chậm đổi mới; năng lực, trình độ, tác phong công tác của một bộ phận cán bộ kiểm tra chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn góp phần bổ sung lý luận phục vụ công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng trong CAND vẫn là khâu yếu; việc ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin và trang thiết bị, kinh phí bảo đảm cho hoạt động kiểm tra, giám sát chưa tương xứng trước đòi hỏi của tình hình mới.
Ngày 18-5-2019, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 192-QĐ/TW, về “Tổ chức đảng trong Công an nhân dân Việt Nam” (Quy định số 192-QĐ/TW), theo đó về công tác kiểm tra, giám sát, quy định giao thêm thẩm quyền cho Đảng ủy Công an Trung ương chủ trì, phối hợp với tỉnh ủy, thành ủy kiểm tra, giám sát TCĐ và đảng viên ở đảng bộ công an tỉnh, thành phố trong việc chấp hành nghị quyết của Đảng ủy Công an Trung ương về bảo đảm an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng CAND; đồng thời, giao thẩm quyền cho đảng ủy công an tỉnh, thành phố chủ trì, phối hợpvới huyện ủy, quận ủy kiểm tra, giám sát TCĐ và đảng viên ở đảng bộ công an huyện, quận trong việc chấp hành nghị quyết của Đảng ủy Công an Trung ương và đảng ủy công an tỉnh, thành phố về bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng CAND.
Thực hiện Quy định số 192-QĐ/TW của Bộ Chính trị; Nghị định số 01/2018/NĐ-CP, ngày 6-8-2018, của Chính phủ, “Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an”; Đề án số 08-ĐA/ĐUCA, ngày 10-8-2018, của Đảng ủy Công an Trung ương, “Về kiện toàn tổ chức đảng, cấp ủy các cấp trong Công an nhân dân”; ngày 3-10-2019 Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương đã phê duyệt Đề án số 1979-ĐA/UBKT (X06), về “Kiện toàn ủy ban kiểm tra, cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp trong Công an nhân dân”.
Để công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng trong toàn lực lượng CAND được tăng cường và tiến hành toàn diện, đồng bộ, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm thống nhất, xuyên suốt từ Đảng ủy Công an Trung ương tới chi bộ đảng, cấp ủy các cấp, cơ quan tham mưu giúp việc cấp ủy (TCĐ), UBKT các cấp trong CAND cần quán triệt nghiêm túc mục tiêu, yêu cầu, quan điểm, nội dung trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng theo các nội dung dưới đây:
Thứ nhất, về mục tiêu:
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong CAND nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, sự đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực hiện dân chủ trong Đảng; giữ vững kỷ cương, kỷ luật, phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng CAND ngày càng trong sạch, vững mạnh.
- Tạo sự chuyển biến tích cực về tư tưởng, nhận thức và hành động trong các cấp ủy, TCĐ, đảng viên thuộc lực lượng CAND đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, trước hết là trong cấp ủy, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, TCĐ, thủ trưởng các cấp. Từng bước hoàn thiện hệ thống lý luận, quy chế, quy định, quy trình, quan điểm, nội dung, phương pháp; kiện toàn UBKT, cơ quan UBKT và xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp trong CAND thống nhất, xuyên suốt; nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng trong tình hình mới.
- Kịp thời đánh giá đúng ưu điểm của TCĐ và đảng viên để phát huy, nhân rộng; phát hiện, làm rõ thiếu sót, hạn chế, khuyết điểm để uốn nắn, khắc phục và xử lý nghiêm minh khi có vi phạm, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, cục bộ, bản vị, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm”, tiêu cực.
Thứ hai, về yêu cầu:
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng trong CAND phải dựatrên cơ sở bảo đảm quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng ủy Công an Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, phù hợp với Quy định số 192-QĐ/TW của Bộ Chính trị, các quy định, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
- Việc tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng phải bảo đảm tính thống nhất xuyên suốt, hiệu lực, hiệu quả từ Trung ương đến Đảng ủy Công an Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương tới đảng ủy, UBKT các cấp trong toàn lực lượng CAND. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng phải xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát đặt ra.
Thứ ba, về quan điểm:
- Kiểm tra, giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo, là chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của các cấp ủy đảng trong CAND, trước hết là nhiệm vụ của cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng đơn vị, do cấp ủy trực tiếp tiến hành. Công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng. Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng và chịu sự giám sát của nhân dân.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng trong CAND phải gắn chặt với công tác tư tưởng, công tác tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; phải thực hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng TCĐ vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh.
- Thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát; “giám sát phải mở rộng”, “kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm” để chủ động phòng ngừa vi phạm và kịp thời phát hiện, phát huy những nhân tố mới, tích cực, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm ngay từ lúc mới manh nha; kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là chính. Khi các vụ, việc vi phạm được phát hiện, phải kiên quyết xử lý nghiêm minh để răn đe và giáo dục.
- Đề cao trách nhiệm của TCĐ và đảng viên; phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị để công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng được công minh, chính xác, kịp thời.
2- Để thực hiện đúng mục tiêu, yêu cầu, quan điểm trên, cấp ủy các cấp, các TCĐ, UBKT các cấp trong CAND cần tập trung thực hiện một số nội dung nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Một là, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, nâng cao nhận thức của cấp ủy, TCĐ, UBKT các cấp và đảng viên trong CAND, trước hết là của người đứng đầu cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và trách nhiệm của cá nhân đối với công tác này tại đảng bộ do mình phụ trách.
Tổ chức các hội nghị phổ biến, quán triệt các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát đối với cấp ủy, TCĐ, UBKT các cấp và đảng viên trong CAND, trước hết là phổ biến cho người đứng đầu cấp ủy nắm rõ về vị trí, vai trò, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, phương châm, nguyên tắc của công tác kiểm tra, giám sát; trách nhiệm của cấp ủy, TCĐ, UBKT các cấp và của đảng viên đối với công tác kiểm tra, giám sát.
Nghiên cứu xây dựng các văn bản nhằm đổi mới hình thức, phương pháp quán triệt, phổ biến về kiểm tra, giám sát của Đảng trong CAND để cấp ủy, TCĐ, UBKT các cấp và đảng viên được tiếp cận, cập nhật thông tin thông qua sinh hoạt đảng bộ, chi bộ.
Tiếp tục đổi mới hình thức, phương pháp tuyên truyền, thông tin về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong CAND trên các báo, đài thuộc CAND. Trước mắt, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương nghiên cứu biên tập, xuất bản hằng quý “Bản tin về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng trong Công an nhân dân”để cấp phát tới cấp ủy, TCĐ và UBKT các cấp trong CAND làm tài liệu sinh hoạt chi bộ; kiện toàn ban tuyên truyền về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong CAND theo quy định của Trung ương.
Hai là, rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy chế, quy định, quy trình, hướng dẫn phục vụ công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng thuộc thẩm quyền của Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương và Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương cho phù hợp với các quy định của Trung ương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Quy định số 192-QĐ/TW của Bộ Chính trị và Nghị định số 01/2018/NĐ-CP của Chính phủ, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an.
Nghiên cứu xây dựng và ban hành mới các quy chế, quy định, quy trình, hướng dẫn; trước mắt tập trung nghiên cứu xây dựng các quy chế phối hợp phục vụ công tác kiểm tra, giám sát (Quy chế phối hợp giữa Đảng ủy Công an Trung ương với tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; Quy chế phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương với các cơ quan tham mưu giúp việc Đảng ủy Công an Trung ương...); các quy định về tuyên truyền công tác kiểm tra, giám sát; luân chuyển thành viên UBKT về làm lãnh đạo các cấp và ngược lại; về quy hoạch thành viên UBKT và chế độ giảng dạy, học tập, bồi dưỡng đối với cán bộ làm công tác kiểm tra các cấp trong CAND; quy định về cán bộ theo dõi địa bàn, lĩnh vực; về nắm tình hình phục vụ công tác kiểm tra, giám sát; về cung cấp thông tin, tài liệu cho đoàn kiểm tra; quy định để Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương tiến hành kiểm tra tới đảng ủy công an cấp huyện và chi bộ đảng khi xét thấy cần thiết; các quy trình về bầu bổ sung thành viên UBKT, cho thôi thành viên UBKT; về chuyển, nhận văn bản kiểm tra, giám sát qua mạng diện rộng của Bộ Công an (WAN); quy trình tổ chức một cuộc họp của UBKT và chế độ cung cấp thông tin về công tác kiểm tra, giám sát.
Ba là, đổi mới, tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng của cấp ủy, TCĐ, UBKT các cấp và chi bộ bảo đảm thống nhất, xuyên suốt, hiệu lực, hiệu quả từ Đảng ủy Công an Trung ương tới chi bộ đảng trong toàn lực lượng CAND.
Các cấp ủy, TCĐ, UBKT các cấp trong CAND phải xây dựng phương hướng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch công tác toàn khóa (nhiệm kỳ) và hằng năm, ban hành các văn bản theo thẩm quyền để thực hiện công tác kiểm tra, giám sát; tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo chương trình, kế hoạch đề ra, đồng thời cấp ủy, TCĐ, UBKT các cấp tập trung thực hiện tốt các nội dung sau:
Đối với cấp ủy các cấp:
Thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị và các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm phát hiện nhân tố tích cực để nhân rộng, phát hiện những chủ trương, chính sách chưa phù hợp để điều chỉnh, từ đó ngăn ngừa, hạn chế các sai phạm của TCĐ và đảng viên. Tập trung kiểm tra, giám sát những nơi thường dễ xảy ra vi phạm, như lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý, sử dụng đất đai, tài chính, dịch vụ; những nơi có dấu hiệu ban hành chủ trương, chính sách trái với nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và bao che sai phạm của cấp dưới. Kiểm tra, giám sát người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp về năng lực lãnh đạo, quản lý, về phẩm chất đạo đức, lối sống, về phong cách và tính tiên phong, gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ.
Đối với các tổ chức đảng:
Chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát TCĐ và đảng viên theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; phối hợp với UBKT tham mưu, giúp cấp ủy cùng cấp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách và nhiệm vụ cấp ủy giao. Kịp thời phát hiện dấu hiệu vi phạm thuộc lĩnh vực công tác của tổ chức mình và chuyển TCĐ có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
Đối với ủy ban kiểm tra các cấp:
Tăng cường kiểm tra, giám sát TCĐ cấp dưới và đảng viên, trước hết là cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy do mình quản lý; chủ động phát hiện và kịp thời kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Nâng cao chất lượng kiểm tra, giám sát tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Qua kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện các tổ chức trong hệ thống chính trị ban hành các chủ trương trái với nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến nghị các cơ quan và TCĐ có thẩm quyền nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành chủ trương, chính sách mới cho phù hợp với thực tế và xem xét trách nhiệm của TCĐ và đảng viên có vi phạm.
Đối với chi bộ:
Tăng cường kiểm tra, giám sát đảng viên trong chi bộ. Tập trung giám sát chi ủy, chi ủy viên, đảng viên là cấp ủy viên các cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý đang sinh hoạt trong chi bộ cả ở nơi công tác và nơi cư trú. Qua kiểm tra, giám sát, kịp thời phát huy ưu điểm, uốn nắn, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên ngay từ khi mới phát sinh để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm từ trong nội bộ, ngay từ cơ sở.
Bốn là, kiện toàn UBKT, cơ quan UBKT theo mô hình thống nhất, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm xuyên suốt từ Đảng ủy Công an Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương tới đảng ủy, UBKT các đảng ủy trực thuộc Đảng ủy Công an Trung ương và tới đảng ủy, UBKT đảng ủy công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; đảng ủy, UBKT đảng ủy công an cấp huyện, quận...
Xây dựng, hoàn thiện các quy định và đổi mới công tác tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, đề bạt, bố trí, luân chuyển, sử dụng, khen thưởng cán bộ để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát. Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra và ngược lại; chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ kiểm tra từ cấp quận, huyện và tương đương trở lên để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ kiểm tra cho cấp cao hơn.
Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng, đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ; có phẩm chất đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, năng lực, tâm huyết và kinh nghiệm, tính chiến đấu cao, có kỹ năng nghiệp vụ thuần thục, phương pháp công tác khoa học, công tâm, khách quan, sâu sát, thận trọng và ứng xử có văn hóa. Không được lợi dụng vị trí công tác để làm sai chức trách, nhiệm vụ được giao.
Tiếp tục nâng cao chất lượng tài liệu huấn luyện, giáo trình phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng cho các cấp ủy, lãnh đạo các TCĐ và cán bộ kiểm tra các cấp, đáp ứng tốt yêu cầu công tác kiểm tra, giám sát trên từng vị trí công tác. Trước hết, nghiên cứu xây dựng chương trình môn học, hoàn chỉnh hồ sơ bài giảng truyền thống và giáo án điện tử đối với các môn học; hoàn thành các tài liệu tham khảo như sách hỏi - đáp, xử lý tình huống về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng.
Đào tạo và xây dựng đội ngũ báo cáo viên các cấp về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong CAND; lựa chọn xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy các lớp bồi dưỡng kiến thức kiểm tra, giám sát, bảo đảm trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm đáp ứng tốt nhiệm vụ, ưu tiên lựa chọn từ đội ngũ giáo viên, giảng viên các trường CAND.
Năm là, tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, sơ kết, tổng kết các chuyên đề về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng.
Đổi mới việc sơ kết, tổng kết thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của các cấp ủy, TCĐ, UBKT các cấp trong CAND. Hằng năm, cuối nhiệm kỳ, cấp ủy các cấp từ Đảng ủy Công an Trung ương đến cơ sở, trước hết là người đứng đầu cấp ủy phải trực tiếp chỉ đạo tổng kết việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng ở cấp mình và sau sơ kết, tổng kết phải chỉ đạo khắc phục triệt để các hạn chế, yếu kém.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, xác định đây là khâu đột phá, không chỉ góp phần bổ sung hoàn thiện lý luận, mà còn giúp cho cán bộ làm công tác kiểm tra nâng cao trình độ; trước mắt, Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương tập trung nghiên cứu từ 1 đến 2 đề tài cấp bộ trọng điểm, tổng kết và bổ sung hoàn thiện lý luận về kiểm tra, giám sát theo chỉ đạo của Trung ương; nghiên cứu xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả toàn diện các mặt công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng trong CAND; nhiệm kỳ và hằng năm, cấp ủy, TCĐ, UBKT các cấp trong CAND cần xác định nhiệm vụ nghiên cứu khoa học ngành kiểm tra đảng trong nghị quyết, chương trình, kế hoạch công tác kiểm tra, giám sát.
Nâng cao khả năng dự báo về tình hình vi phạm của TCĐ và đảng viên, nhất là những vi phạm mới do tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ mới; tác động của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có ảnh hưởng đến công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng trong CAND.
Sáu là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng.
Từng bước ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin, gắn với cải cách thủ tục, lề lối làm việc, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Ngoài việc thụ hưởng các phần mềm của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Bộ Công an, cấp ủy các cấp cần quan tâm đầu tư, tạo điều kiện về nguồn lực, cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện làm việc bảo đảm cho hoạt động của UBKT các cấp. Trước mắt, Cơ quan Ủy ban kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương tập trung xây dựng Đề án “Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ toàn diện công tác kiểm tra, giám sát trong Công an nhân dân”, xây dựng cơ sở dữ liệu, thông tin, tuyên truyền và quản lý hồ sơ kiểm tra, giám sát theo quy định; tiếp tục tăng cường đầu tư các nguồn lựcphục vụ công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng trong CAND./.
------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 208
(2) Nghị quyết số 03-NQ/ĐUCA, ngày 11-11-2016, của Đảng ủy Công an Trung ương, về “Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng ủy Công an Trung ương nhiệm kỳ VI (2015 - 2020)”
(3) Từ năm 2015 đến nay, Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương đã ban hành 1 nghị quyết, 4 chương trình công tác; 5 quy định, 2 hướng dẫn để chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng trong Đảng bộ Công an Trung ương
Bản lĩnh chính trị của Đảng - nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trụ vững và phát triển  (06/02/2020)
Diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam  (03/02/2020)
Đảng Cộng sản Việt Nam - Chín mươi năm kiên định và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin  (25/01/2020)
Xây dựng hình ảnh người Công an Thủ đô vì nhân dân phục vụ  (31/12/2019)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển