Phát triển kinh tế biển Việt Nam: Cần phát huy tiềm năng và lợi thế so sánh
TCCSĐT - Việt Nam có tiềm năng rất lớn để phát triển kinh tế biển với lợi thế về địa - chính trị, địa - kinh tế khi nằm trên bờ Biển Đông, nơi tuyến hàng hải sôi động của thế giới chạy qua, có biển, vùng bờ biển và hải đảo phong phú tài nguyên. Để kinh tế biển phát triển, Việt Nam cần phát huy tối đa các tiềm năng và lợi thế so sánh cũng như bảo đảm an toàn cho môi trường sinh thái.
Tiềm năng và lợi thế
Với chiều dài bờ biển 3.260km, Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển so với diện tích lãnh thổ. Theo đó, bình quân cứ 10km2 đất liền có 1km bờ biển, cao gấp 6 lần chỉ số trung bình của thế giới. Việt Nam có hơn 3.000 hòn đảo và hơn 1 triệu km2 vùng biển kinh tế đặc quyền rộng gấp 3 lần diện tích đất liền, chứa đựng nhiều hệ sinh thái quan trọng và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng.
Xét về vị thế, vùng biển Việt Nam có vị trí hết sức quan trọng, là con đường biển ngắn nhất nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương và hiện nay là tuyến hàng hải nhộn nhịp thứ 2 trên thế giới. Trong lịch sử và cho đến tận bây giờ, đây vẫn là con đường huyết mạch nối liền đông bán cầu và tây bán cầu. Việt Nam cũng nằm tại khu vực có nhiều nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới hiện nay, như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Đông Nam Á khác. Nghiên cứu về vấn đề này, PGS,TS. Vũ Thanh Ca, Viện Chiến lược chính sách tài nguyên - môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhấn mạnh: “Giá trị cao của địa - chính trị vùng biển Việt Nam thể hiện ở chỗ nó nằm tại khu vực có tốc độ phát triển kinh tế cao và là cầu nối giữa nhiều cường quốc kinh tế và chính trị trên thế giới. Vùng biển Việt Nam lại nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiều khu vực ấm quanh năm, rất thuận lợi cho du khách từ nhiều quốc gia, đặc biệt từ các quốc gia có mùa đông lạnh tới nghỉ dưỡng, tắm biển… Tài nguyên vị thế trên vùng biển Việt Nam còn thể hiện ở giá trị sử dụng của không gian biển. Với vị trí thuận lợi cho giao thông và các vũng, vịnh kín có độ sâu lớn, rất thuận lợi làm cảng, không gian rộng lớn ở ven biển và trên bờ biển rất thuận lợi để phát triển các khu kinh tế. Không gian mặt nước và các bãi bồi ven biển cũng rất thuận lợi để nuôi trồng hải sản, đặc biệt là các hải sản có giá trị kinh tế cao.”
Ngoài giá trị về vị thế, vùng biển Việt Nam còn có nhiều nguồn tài nguyên phong phú, trong đó giá trị lớn là dầu khí, nguồn lợi thủy sản… Theo các số liệu thống kê, trữ lượng cá ở vùng biển nước ta khoảng 5 triệu tấn/năm, trữ lượng cá có thể đánh bắt hằng năm khoảng 2,3 triệu tấn. Dọc ven biển có tên 37 vạn ha mặt nước các loại có khả năng nuôi trồng thủy sản nước mặn - lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu như tôm, cua, rong câu. Ngoài ra còn có hơn 50 vạn ha các eo vịnh nông và đầm phá ven bờ như vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, phá Tam Giang, vịnh Vân Phong… là môi trường rất thuận lợi để phát triển nuôi cá và đặc sản biển. Bờ biển Việt Nam cũng có nhiều vũng, vịnh sâu kín gió, rất thuận lợi để làm cảng biển.
Với đường bờ biển dài và hơn 3.000 hòn đảo, Việt Nam được thiên nhiên ban phú cho nhiều bãi tắm đẹp, có giá trị nghỉ dưỡng cao. Theo thống kê, dọc bờ biển Việt Nam có khoảng 125 bãi biển đẹp, trong đó, một số bãi biển và vịnh được đánh giá là những bãi biển và vịnh đẹp nhất của thế giới như bãi biển Mỹ Khê (Đà Nẵng), Phú Quốc (Kiên Giang), Eo gió (Bình Định), vịnh Nha Trang, vịnh Lăng Cô, đặc biệt, vịnh Hạ Long với cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Điều này tạo nhiều lợi thế cho Việt Nam phát triển du lịch biển.
Tài nguyên biển phong phú chính là tiền đề cho xây dựng các chiến lược về biển. Trong đó, Nghị quyết 09-NQ/TW, ngày 09-02-2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” đặt mục tiêu đưa đất nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển theo hướng phát triển bền vững, phấn đấu đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP; 55-60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện thêm một bước đáng kể đời sống cho nhân dân vùng biển và ven biển; có thu nhập bình quân đầu người cao gấp 2 lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước.
Kinh tế biển Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng
Có thể nói Chiến lược biển Việt Nam là quyết tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm đưa nước ta trở thành quốc gia biển. Sau hơn 10 năm thực hiện Chiến lược biển, kinh tế biển Việt Nam đã đạt được một số thành công. Tuy nhiên, kinh tế biển hiện nay vẫn chưa bền vững và chưa phát huy được các thế mạnh của tài nguyên biển.
Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế xã hội Quốc gia - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá một cách tổng thể, sự phát triển của kinh tế biển, đảo ở Việt Nam vẫn chưa xứng tầm với các điều kiện và lợi thế sẵn có. Quy mô kinh tế biển của thế giới ước đạt 1.300 tỉ USD. Theo ước tính, quy mô kinh tế biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân đạt khoảng 47 - 48% GDP cả nước, trong đó, GDP của kinh tế “thuần biển” mới đạt khoảng 20 - 22% tổng GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của các ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm 98%, chủ yếu là khai thác dầu khí, nuôi trồng, đánh bắt hải sản, vận tải biển, du lịch biển. Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển như chế biến dầu khí, chế biến thủy hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, thông tin liên lạc… bước đầu phát triển, nhưng hiện tại quy mô mới chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng GDP cả nước. Kết cấu hạ tầng các vùng biển, ven biển, đảo tuy được quan tâm nhưng vẫn còn hạn chế. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, mạng lưới tàu thuyền, trang thiết bị nhìn chung còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp.
Điều đáng lo ngại là việc phát triển kinh tế biển đã gây ra những suy thoái rất mạnh mẽ tới môi trường và các nguồn tài nguyên biển. Theo PGS, TS. Vũ Thanh Ca, phát triển kinh tế biển của Việt Nam hiện nay đang gặp rất nhiều thách thức, chủ yếu là do chủ quan. Nguyên nhân lớn nhất là do chưa có quy hoạch sử dụng biển cũng như quy hoạch tổng thể sử dụng vùng bờ biển theo quan điểm quản lý tổng hợp. Điều đó dẫn tới nguồn thủy sản bị đánh bắt cạn kiệt, các hệ sinh thái biển quan trọng như rừng ngập mặn, hệ rạn san hô, thảm thực vật biển bị phá hoại và suy thoái nghiêm trọng. Nhận thức của ngư dân còn thấp nên còn đánh bắt cá trái phép, thậm chí đánh bắt hủy diệt tại các vùng biển Việt Nam và vùng biển nước ngoài, gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng tới thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Ô nhiễm môi trường biển ngày càng gia tăng điển hình là vụ xả nước thải trái phép ra biển của Công ty Hưng Nghiệp (Fomosa) tại Hà Tĩnh, đã gây ra những hậu quả rất lớn tới môi trường biển và kinh tế - xã hội tại các tỉnh ven biển từ Hà Tĩnh tới Thừa Thiên Huế.
Bên cạnh đó, việc quản lý nhiều khu bảo tồn biển chưa hiệu quả nên chưa tạo nhiều thay đổi trong phục hồi, tái tạo nguồn lợi thủy sản. Việc đầu tư kết cấu hạ tầng ven biển còn dàn trải. Hệ thống chính sách, pháp luật phát triển kinh tế biển chưa đồng bộ, chưa tạo được sức mạnh để điều chỉnh các hoạt động phát triển kinh tế biển. Đặc biệt, nhận thức về phát triển một cách hiệu quả, bền vững kinh tế biển của cán bộ và nhân dân chưa cao, khái niệm về nền kinh tế biển xanh hầu như chưa được hiểu và áp dụng thống nhất ở Việt Nam.
Phát triển bền vững kinh tế biển từ các cách tiếp cận khác nhau
Đề xuất giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển, với cách tiếp cận từ hệ thống quản lý nhà nước, PGS,TS. Vũ Sĩ Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường nhấn mạnh tới vai trò của quản lý tổng hợp tài nguyên môi trường biển và hải đảo. Do tài nguyên biển và hải đảo chủ yếu đang được quản lý theo ngành, lĩnh vực nên việc khai thác, sử dụng chưa dựa trên việc phân tích các chức năng của mỗi vùng biển một cách tổng thể; còn thiếu sự gắn kết, hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên biển trên cùng một vùng biển. mặt khác, các hoạt động trên biển có mối liên hệ, tác động nhất định đến nhau, vùng với tính chất liên thông của biển thì trong một số trường hợp, quản lý theo ngành, lĩnh vực với đặc điểm luôn tối đa hóa lợi ích của ngành, lĩnh vực mình mà không xem xét vấn đề khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên, môi trường biển và hải đảo một cách tổng thể đã làm hạn chế sự phát triển chung, thiếu sự hài hòa lợi ích của các ngành, lĩnh vực, làm suy thoái nhiều loại tài nguyên, nhất là tài nguyên tái tạo; tình trạng ô nhiễm môi trường biển, hải đảo có chiều hướng gia tăng; nhiều hệ sinh thái biển và hải đảo quan trọng đã bị tổn thương nghiêm trọng; dẫn tới sự nghèo nàn của nguồn lợi thủy sản.
Trong khi đó, quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo là phương thức quản lý theo phương châm không làm thay quản lý ngành, lĩnh vực mà đóng vai trò điều phối, phối hợp các hoạt động quản lý ngành, lĩnh vực nhằm quản lý có hiệu quả hơn các hoạt động điều tra, thăm dò, khai thác, sử dụng các loại tài nguyên biển và hải đảo. Do đó, “phương thức quản lý tổng hợp có vai trò điều chỉnh hoạt động của con người để bảo vệ tính toàn vẹn về chức năng và cấu trúc của hệ sinh thái, duy trì và cải thiện năng suất của hệ sinh thái, qua đó, bảo đảm tài nguyên biển được quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm, môi trường biển được bảo vệ, hài hòa được lợi ích của các bên liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển” - PGS,TS. Vũ Sĩ Tuấn nhấn mạnh.
Do tính hiệu quả và thiết thực, đến năm 2002, đã có 145 quốc gia và vùng lãnh thổ thực hiện 622 chương trình hoặc dự án quản lý tổng hợp vùng bờ; trong đó có nhiều quốc gia có biển trên thế giới đã áp dụng phương thức quản lý này có hiệu quả như Mỹ, Ca-na-da, Trung Quốc, Nhật Bản, các nước EU, Nam Phi, Úc… Còn tại Việt Nam, quản lý tổng hợp bắt đầu từ việc Tổ chức Đối tác quản lý môi trường các biển Đông Á/PEMSEA, giới thiệu và thực hiện tại Đà Nẵng năm 1995, tiếp sau đó là nhiều chương trình dự án khác. Và sự ra đời của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (năm 2008) là một dấu mốc quan trọng trong quyết tâm thực hiện quản lý tổng hợp, thống nhất về biển và hải đảo Việt Nam. PGS,TS. Vũ Sĩ Tuấn cho rằng: “Muốn triển khai quản lý tổng hợp biển và hải đạo trên quy mô toàn quốc thành công, trước mắt cần hoàn thiện pháp luật, xây dựng; công bố quy hoạch tổng thể, thành lập Ban Điều phối cấp quốc gia”.
Cũng dưới góc độ quản lý tổng hợp biển, và hải đảo, đồng chí Hà Thanh Biên, Cục Quản lý khai thác biển và hải đảo, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho rằng, để phát triển kinh tế biển bền vững, cần xây dựng một quy hoạch sử dụng biển cho toàn quốc mang tính tổng hợp với phương thức tiếp cận sinh thái.
Với cách tiếp cận từ lợi thế và hạn chế của kinh tế biển, một số chuyên gia cho rằng cần xây dựng và triển khai thực hiện một cơ chế kinh tế thị trường theo hướng nền kinh tế biển xanh bằng cách xây dựng và thực hiện quy định pháp luật để đảm bảo tối ưu hóa các lợi ích. Ở góc độ nghiên cứu phát triển kinh tế các xã đảo ven bờ, đồng chí Lê Xuân Sinh, Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam nhấn mạnh: “Mô hình kinh tế xanh sẽ đảm bảo được cộng đồng dân cư tại các xã đảo chống chịu được các thách thức của biến đổi khí hậu, bảo đảm tự cung tự cấp trong điều kiện bị chia cắt với đất liền trong thời gian nhất định”. Để phát triển bền vững hệ thống các xã đảo ven bờ Việt Nam, cần định hướng phát triển mô hình kinh tế xanh trên cơ sở các ngành sản xuất dịch vụ phải thân thiện với môi trường; bảo tồn và phát triển rừng nhằm bảo vệ tính đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển kinh tế thủy sản theo hướng tiếp cận quy trình công nghệ nuôi trồng thủy sản hiện đại và ưu tiên phát triển du lịch sinh thái, coi đây là động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác, tạo nên sự chuyển đổi cơ cầu ngành nghề và nâng cao thu nhập cho cộng đồng dân trên đảo. Riêng đối với kinh tế 3 xã đảo ven bờ (Việt Hải, thành phố Hải Phòng; Nhơn Châu, tỉnh Bình Định và Nam Du, tỉnh Kiên Giang) thì mô hình kinh tế xanh đầy đủ cho các đảo ven bờ là kinh tế nông lâm nghiệp xanh, sạch - kinh tế ngư nghiệp và dịch vụ du lịch.
PGS,TS. Nguyễn Chu Hồi cho rằng miền Trung và 14 tỉnh thành ven biển trong vùng vừa có những lợi thế địa chiến lược, vừa có tính độc đáo về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên biển, ven biển và đảo, bảo đảm cho kinh tế biển ở đây phát triển bền vững và tăng trưởng xanh lam. Theo ông, vùng biển miền Trung có thềm lục địa hẹp chiều ngang và thuộc phần bồn trũng nước sâu kiểu đại dương” trong Biển Đông, các đảo ven bờ phân bố rải rác ở các tỉnh và có hai quần đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là vùng biển giàu san hô nhất trong Biển Đông với các hệ thống san hô sinh trưởng trên nền núi lửa cổ ở quy mô rộng lớn và đóng vai trò quyết định đối với đa dạng sinh học và nghề cá Biển Đông và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế biển xanh và bền vững ở miền Trung. Bên cạnh đó, điều kiện môi trường tự nhiên biển khơi tiếp cận trực tiếp gần bờ của miền Trung rất thuận lợi cho phát triển nghề khai thác hải sản biển xa bờ của các tỉnh Nam Trung bộ. Chỉ riêng xuất khẩu cá ngừ năm 2016 đã lên đến gần 600 triệu đô la Mỹ. Ngoài ra, tuyến hàng hải quốc tế Ấn Độ Dương - thái Bình Dương và các tuyến trong khu vực Biển Đông phần lớn đều đi qua hoặc lân cận vùng biển miền Trung nước ta. Đây là khu vực phân bố các bồn trầm tích có các cấu trúc dầu khí triển vọng và các biểu hiện băng cháy ở nước ta. Tiềm năng phát triển cảng - hàng hải của vùng này rất lớn mà đến nay chưa được khai thác tương xứng. Vùng ven biển miền Trung có vị trí rất quan trọng, là cửa mở thông thương ra biển và có thể hỗ trợ cho hội nhập kinh tế nội khối ASEAN thông qua Hành lang kinh tế Đông - Tây. Nhiều vịnh, vũng có thể xây dựng thành các cảng biển nước sâu tiềm năng nhất ở nước ta, tạo tiền đề phát triển các khu kinh tế ven biển theo mô hình: cảng - đô thị - biển như: Nghi Sơn (Thanh Hóa), Vũng Áng (Hà Tĩnh), Dung Quất (Quảng Ngãi), Chân Mây (Đà Nẵng), Vịnh Hàn, Nhơn Hội (Bình Định), vịnh Vân Phong, Nha Trang, Cam Ranh (Khánh Hòa). Để phát triển kinh tế biển miền Trung, theo ông cần chuyển “yếu thế” trong vùng thành lợi thế và từ lợi thế chuyển thành lợi ích cho kinh tế biển toàn vùng và cho đất nước trên cơ sở tôn trọng các yếu tố đặc thù, các giá trị cốt lõi trong vùng và từng địa phương, bảo đảm tốt liên kết vùng trong phát triển “chuỗi” khu kinh tế biển đảo, chuỗi đô thị ven biển và chuỗi đô thị đảo ở miền Trung. Thực trạng và tiềm năng phát triển của miền Trung đòi hỏi phải thay đổi tầm nhìn, xóa bỏ định kiến trong chiến lược phát triển kinh tế biển theo hướng chuyển từ “nâu” sang “xanh lam”, hướng tới sự phát triển bền vững và thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát huy cơ hội, khắc phục thách thức để kinh tế biển miền Trung “bứt phá” trong dài hạn.
Về lĩnh vực phát triển du lịch biển, giảng viên Đào Thị Bích Thủy, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội đánh giá Việt Nam có khoảng 125 bãi biển, vịnh biển thuận lợi để phát triển du lịch. Ngoài ra, Việt Nam còn có các khu dự trữ sinh quyển được UNESCO công nhận và hệ thống các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên ven biển đa dạng. Các vùng ven biển cũng được thừa hưởng các di tích lịch sử văn hóa phong phú. Đó là những điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch nghỉ dưỡng biển đảo, du lịch sinh thái, thể thao và mạo hiểm.
Thực tế, du lịch biển trong những năm qua tăng trưởng cả về doanh thu và số lượt khách du lịch, tính bình quân trong giai đoạn 2000 - 2015 trong tổng số 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì chỉ riêng 28 tỉnh, thành phố giáp biển đã chiếm tỉ trọng 71,5% doanh thu du lịch lữ hành của cả nước. Điều này cho thấy ưu thế của du lịch biển trong ngành du lịch của cả nước. Xét theo bình quân địa phương trong giai đoạn này, tính trung bình doanh thu du lịch lữ hành của một địa phương giáp biển cao gấp 3,2 lần so với một địa phương không giáp biển. Mỗi địa phương cần tìm ra nét đặc thù, tạo lợi thế cạnh tranh riêng biệt để khai thác, phát triển tiềm năng du lịch từ đấy hoặc liên kết giữa các địa phương để tạo thành chuỗi du lịch nhằm khai thác lợi thế chung.
Trong khi đó, đánh giá về tiềm năng năng lượng tái tạo vùng biển ven bờ Việt Nam và các dự án kéo điện từ đất liền ra các đảo ven bờ, PGS,TS. Lưu Đức Hải, Khoa Môi trường, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đưa ra các khuyến nghị mang tính dự báo: Việc chuyển tải điện từ đất liền ra các đảo ven bờ cần thiết trong gia đoạn hiện nay có thể sẽ được thay thế bằng việc chuyển tải điện sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo từ đảo vào đất liền. Sự đổi hướng chuyển tải điện sẽ diễn ra nhanh chóng khi Nhà nước quan tâm đến phát huy tiềm năng năng lượng tái tạo lớn của vùng biển ven bờ và xóa bỏ bao cấp trong sản xuất điện từ các nguồn năng lượng truyền thống; đầu tư kinh phí đánh giá tiềm năng các dạng năng lượng tái tạo ở các vùng biển ven bờ; tạo điều kiện khuyến khích các nhà đầu tư thực hiện các dự án sản xuất điện từ nguồn năng lượng tái tạo./.
Thông tin kinh tế đáng chú ý trong tuần (Từ ngày 04 đến 10-6-2018)  (15/06/2018)
Kỳ họp thứ năm Quốc hội Khóa XIV bế mạc sau 21 ngày làm việc  (15/06/2018)
Toàn văn Bài phát biểu bế mạc Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV  (15/06/2018)
Học thuyết về con người, giải phóng và phát triển con người - một giá trị làm nên sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác  (15/06/2018)
- Quảng Ngãi phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
- Một số nội dung chủ yếu trong đường lối, chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa liên quan đến chuyển đổi công nghiệp
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên