Phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia ở tỉnh Lai Châu

Đỗ Ngọc An ThS, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu
15:54, ngày 05-02-2018

TCCS - Trong những năm gần đây, quán triệt chủ trương phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh trong điều kiện mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, quân và dân các dân tộc tỉnh Lai Châu đang từng bước thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra. Trong đó, nổi bật là kết quả bước đầu về phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội gắn với giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia.

Những thành tựu cơ bản

Quán triệt chủ trương của Đại hội XII của Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu đã ban hành đồng bộ các nghị quyết chuyên đề, đề án, kết luận về phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội gắn với giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia. Với tinh thần đó, quá trình đẩy mạnh phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia ở tỉnh Lai Châu đã và đang đạt được những kết quả quan trọng, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đạt khá. Giai đoạn 2011 - 2016 đạt trung bình trên 9%/năm, trong đó giai đoạn 2011 - 2015 tăng 7,4%/năm, riêng năm 2016 đạt 24,88% (cả nước: giai đoạn 2011 - 2015 đạt 5,88%/năm, năm 2016 đạt 6,21%). Tổng sản phẩm bình quân đầu người năm 2016 đạt 22,5 triệu đồng, tăng 1,9 lần so với năm 2011 (năm 2005 là 3,3 triệu đồng). Cơ cấu kinh tế các ngành, lĩnh vực chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng, giảm tỷ trọng ngành nông - lâm nghiệp - thủy sản (nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 20,36%, giảm 9,67%; công nghiệp - xây dựng chiếm 35,62%, tăng 15,67%; dịch vụ chiếm 44,02%, giảm 6,31% so với năm 2011).

Trên địa bàn tỉnh Lai Châu đang dần hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung, như: vùng sản xuất lúa ở các huyện Tân Uyên, Than Uyên; cây cao su ở huyện Sìn Hồ, cây chè ở các huyện Tân Uyên, Tam Đường, cây chuối ở huyện Phong Thổ... Bước đầu xuất hiện một số mô hình liên kết sản xuất giữa người dân và doanh nghiệp, gắn sản xuất với thị trường. Lâm nghiệp phát triển rõ nét, tỉnh đã và đang thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng. Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2017 ước đạt 213.000 tấn, diện tích vùng chè đạt 4.910ha; tỷ lệ che phủ rừng đạt 47,6%; diện tích các cây công nghiệp có giá trị cao được phát triển (cây cao su đạt 13.000ha, cây quế đạt 1.820ha, cây sơn trà đạt 1.180ha...).

Nuôi trồng thủy sản có bước phát triển, hình thành một số cơ sở nuôi cá nước lạnh có giá trị kinh tế cao, tổng sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thủy sản năm 2017 ước đạt 2.290 tấn, trong đó nuôi thả trên ao, hồ đạt 1.860 tấn, cá nước lạnh: 150 tấn.

Các ngành công nghiệp lợi thế được quan tâm phát triển, nhất là ngành công nghiệp điện. Sản xuất công nghiệp có mức tăng trưởng cao, hoàn thành kết nối với lưới điện quốc gia các nhà máy thủy điện Lai Châu, Huội Quảng, Bản Chát; nhiều dự án thủy điện vừa và nhỏ được tập trung đầu tư, năm 2016 giá trị sản xuất ngành công nghiệp (theo giá so sánh với năm 2010) đạt 3.904,5 tỷ đồng, tăng 9,1 lần so với năm 2011; sản phẩm điện sản xuất đạt 4.890,2 triệu kw/h.

Trong 5 năm vừa qua, tỉnh đã đưa vào sử dụng nhiều công trình quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có các tuyến giao thông đột phá, như tuyến Pa Tần - Mường Tè; Mường Tè - Tà Tổng, thành phố Lai Châu - Sìn Hồ... Đến hết năm 2016, 100% số xã của tỉnh Lai Châu có đường ô-tô đến trung tâm xã, trong đó 95/96 xã có đường ô-tô đến trung tâm xã với mặt đường được cứng hóa, đạt tỷ lệ 98,96% số xã; 84,02% số thôn, bản có đường cho xe máy, ô-tô đi lại thuận lợi; 92% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia; 90% dân số đô thị được sử dụng nước sạch; 78,5% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh. Toàn tỉnh có 112 trường học đạt chuẩn quốc gia (chiếm 26,1%); tỷ lệ phòng học kiên cố và bán kiên cố đạt 83,2%. Đến hết năm 2016 toàn tỉnh có 1.130 giường bệnh, đạt 26,59 giường bệnh/vạn dân; 100% số xã phường có trạm y tế, trong đó 72 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế (chiếm 66,67% số xã). Hiện nay, toàn địa bàn tỉnh có 450 nhà văn hóa xã, bản; 5 sân vận động cấp huyện, thành phố, 76 nhà tập luyện thể thao. Hệ thống đô thị phát triển nhanh, xây dựng hiện đại, đồng bộ và khang trang, trong đó có 1 đô thị loại 3 (thành phố Lai Châu) và 7 đô thị loại 5.

Bên cạnh đó, nhằm tăng cường nguồn vốn và xây dựng các mô hình sản xuất, trong giai đoạn 2011 - 2016, Lai Châu cũng tích cực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, phát triển doanh nghiệp, đến nay toàn tỉnh có 1.220 doanh nghiệp, trong số này có 1.033 doanh nghiệp kê khai thuế, chiếm 88% tổng số doanh nghiệp.

Chương trình xây dựng nông thôn mới của Lai Châu được tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các tiêu chí; đến hết tháng 06-2017, số xã đạt chuẩn nông thôn mới là 24/96 xã, tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới là 25%.

Thứ hai, về lĩnh vực y tế, giáo dục và bảo đảm an sinh xã hội

Sự nghiệp giáo dục được từng bước cải thiện: năm học 2016 - 2017, toàn tỉnh có 429 trường với 6.712 phòng học tại nhiều điểm trường, kể cả những điểm trường còn đặc biệt khó khăn thuộc vùng sâu, vùng xa. Chất lượng giáo dục và đào tạo đang dần được nâng lên. Năm 2016, Lai Châu được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận là tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Tỉnh đang tập trung xây dựng nhiều trường chuẩn quốc gia, hiện toàn tỉnh có 112 trường đạt chuẩn quốc gia, tăng 81 trường so với năm học 2011 - 2012.

Bình quân mỗi năm hệ thống y tế trên toàn tỉnh tổ chức khám, chữa bệnh cho trên 800.000 lượt người. Các chính sách y tế cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi được tích cực thực hiện. Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc-xin ước đạt 93,63%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm xuống còn 22,52%; tỷ lệ bác sĩ/vạn dân đạt 8,77%.

Các hoạt động văn hóa, thể thao được chú trọng, hệ thống các thiết chế văn hóa - thể thao từng bước được đầu tư, nâng cấp, xây dựng mới. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” phát triển sâu rộng, năm 2016 có 81,1% số hộ gia đình; 65,3% số thôn, bản, khu phố; 91,5% số cơ quan, đơn vị, trường học đạt tiêu chuẩn văn hóa. Hoạt động phát thanh, truyền hình, thông tin, tuyên truyền, báo in, báo điện tử và các ấn phẩm mang tính báo chí có sự phát triển cả về quy mô và chất lượng, góp phần thiết thực phục vụ thực hiện nhiệm vụ chính trị và đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân.

Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,1%. Công tác xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm được quan tâm đẩy mạnh. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 46,7% (năm 2010) xuống còn 18,75% (năm 2015), theo chuẩn nghèo cũ. Hai năm gần đây, hằng năm tỷ lệ hộ nghèo giảm khoảng 4% - 5%/năm, đến hết năm 2017, tỷ lệ hộ nghèo ước còn khoảng 20% (theo chuẩn nghèo mới). Giai đoạn 2011 - 2016, tỉnh giải quyết việc làm cho trên 38.000 lao động, bình quân trên 6.000 lao động/năm, đào tạo nghề cho trên 33.000 lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 32,5% (năm 2011) lên 42,8% (năm 2016).

Với đặc thù là tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số, nên trong quá trình thực hiện, tỉnh đã chú trọng lồng ghép bảo đảm an sinh xã hội với chính sách dân tộc. Nhờ đó, các chính sách dân tộc được triển khai thực hiện đồng bộ, phát huy được hiệu quả. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số được đầu tư, cơ bản đáp ứng nhu cầu thiết yếu. Tỉnh thực hiện chính sách cử tuyển và xét tuyển học sinh người dân tộc thiểu số vào học tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Công tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số được chú trọng. Tỉnh đã tuyển dụng và bố trí công tác cho hàng nghìn công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số vào các cơ quan nhà nước, nhất là cấp huyện, xã; thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào; khôi phục, bảo tồn và phát triển các lễ hội, bản sắc văn hóa các dân tộc. Các chính sách hỗ trợ đối với đồng bào dân tộc thiểu số đã góp phần phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, nhờ thực hiện tốt an sinh xã hội đối với người nghèo, đặc biệt là các hộ nghèo tại các xã biên giới, nên ý thức của nhân dân về chủ quyền lãnh thổ không ngừng được nâng lên trong những năm gần đây, bảo đảm tốt việc xây dựng biên giới hữu nghị, hợp tác với các địa phương của nước bạn.

Thứ ba, về thực hiện đẩy mạnh bảo vệ môi trường

Lai Châu có diện tích tự nhiên là 9.069km2, trong đó đất lâm nghiệp chiếm 82,3%, địa hình chủ yếu là núi cao, độ dốc lớn và chia cắt mạnh. Với vị trí đặc biệt, Lai Châu là vùng phòng hộ đầu nguồn đặc biệt xung yếu của sông Đà, nguồn sinh thủy dồi dào và ổn định cấp nước cho các công trình thủy điện lớn ở Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình và phát triển kinh tế vùng châu thổ sông Hồng.

Xác định được vai trò đó, trong các năm gần đây, việc bảo vệ tài nguyên, môi trường của tỉnh đã đi vào nền nếp. Tỉnh đã thông qua và áp dụng nhiều cơ chế phù hợp, các giải pháp quyết liệt, vấn đề bảo vệ môi trường sống, chống ô nhiễm các nguồn nước, đất và không khí đã được các cấp, các ngành trong tỉnh và các tầng lớp nhân dân đồng thuận và cùng tham gia. Công tác quy hoạch sử dụng các nguồn tài nguyên đất đai, nguồn nước, khoáng sản, rừng... được chú trọng thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập tỉnh, do vậy các nguồn tài nguyên được khai thác, sử dụng có hiệu quả, hợp lý và tiết kiệm, tạo tiền đề thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tỉnh đã ban hành nhiều quy hoạch để sử dụng, bảo vệ tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên nước, như quy hoạch sử dụng đất theo từng giai đoạn 5 năm và hằng năm; các quy hoạch phát triển hệ thống thủy điện, thủy lợi, nước sạch; quy hoạch phát triển rừng... Công tác trồng rừng, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng gắn với việc chi trả dịch vụ môi trường rừng được quan tâm hơn, ý thức bảo vệ rừng của nhân dân trong tỉnh được nâng lên rõ rệt nên tình trạng cháy rừng và chặt phá rừng đã được giảm bớt, tỷ lệ độ che phủ rừng được nâng lên từ 37,88% (năm 2007) lên 46,4% (năm 2015). Trong 5 năm trở lại đây không xảy ra cháy rừng trên địa bàn tỉnh. Nguồn rừng được bảo tồn, tái sinh đã góp phần bảo vệ hệ thống giao thông, giảm dần sạt lở trong mùa mưa lũ. Nhờ đó, đời sống và khả năng giao thương hàng hóa của nhân dân các dân tộc trong tỉnh được nâng lên.

Một số vấn đề đang được đặt ra

Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng, tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển mới, nhiều vấn đề đặt ra đối với tỉnh Lai Châu cần được tiếp tục có những giải pháp và sự nỗ lực mới, cụ thể là:

Về kinh tế: Quy mô nền kinh tế của Lai Châu vẫn còn nhỏ, chậm phát triển. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh bình quân đầu người so với cả nước còn thấp, bằng 46,3% so với bình quân cả nước, bằng khoảng 80% so với bình quân vùng miền núi phía Bắc. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Hiện nay, Lai Châu vẫn còn 17,95% số bản chưa có đường xe máy đi lại thuận lợi; 9,5% số hộ chưa được sử dụng điện lưới quốc gia; 23% số dân nông thôn chưa được sử dụng nước hợp vệ sinh. Toàn tỉnh còn 1.125 phòng học tạm, 16,8% số phòng học chưa được kiên cố hóa. Cơ sở vật chất ngành y tế còn hạn chế, nhất là tuyến cơ sở, 30% số trạm y tế chưa đạt tiêu chí về cơ sở vật chất trong bộ tiêu chí quốc gia.

Bên cạnh đó, tính liên kết để phát triển giữa Lai Châu với các địa phương của vùng Tây Bắc còn thiếu chặt chẽ. Trên thực tế, sự kết nối về kết cấu hạ tầng cũng như kết nối trong quy hoạch định hướng phát triển sản phẩm hàng hóa, thị trường sản phẩm trong toàn vùng Tây Bắc, trong đó có Lai Châu còn rất lỏng lẻo. Hiện mỗi tỉnh trong vùng Tây Bắc đều tự đầu tư xây dựng thương hiệu, quảng bá một số loại sản phẩm nên dễ trùng nhau, mỗi sản phẩm đạt sản lượng nhỏ, chưa có thương hiệu mạnh (chẳng hạn mỗi tỉnh đều có một lượng nhỏ sản phẩm chè, một lượng nhỏ sản phẩm quế...). Tình trạng này đang diễn ra phổ biến gây lãng phí nguồn lực, hiệu quả kinh tế - xã hội không cao.

Về xã hội: Chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế. Đào tạo nghề cho người lao động còn nhiều bất cập. Nhiều lao động thiếu việc làm. Chế độ tiền lương, thu nhập chưa động viên được người lao động. Công tác chăm sóc sức khỏe và khám, chữa bệnh cho người dân chưa đáp ứng yêu cầu; đội ngũ y bác sĩ ở vùng sâu, vùng xa còn thiếu; vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ, việc quản lý văn hóa phẩm, thông tin độc hại còn nhiều bất cập và khó khăn. Đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, công tác giảm nghèo chưa thật bền vững. Tình trạng tái nghèo và tỷ lệ hộ cận nghèo cao, còn 6 huyện nghèo, 62 xã, 555 thôn, bản thuộc diện đặc biệt khó khăn; khoảng cách chênh lệnh giàu - nghèo có xu hướng rộng thêm. Mạng lưới an sinh xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu. Khả năng thích ứng với những tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu của nhiều hộ gia đình đồng bào dân tộc ít người còn thấp, nhất là đối với các hộ sống tại vùng sâu, hẻo lánh.

Về môi trường: Đối với Lai Châu, vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai đang đặt ra nhiều thách thức. Do điều kiện đặc thù về địa hình miền núi chia cắt phức tạp, nên hằng năm, đặc biệt là 3 năm trở lại đây, cứ đến mùa mưa lũ, thường xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, giông, lốc, gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản. Bên cạnh đó, do đất sản xuất nông nghiệp ít, mặc dù dân cư phân bố thưa thớt, song tình trạng di dịch cư tự do vẫn còn. Đi liền với tình trạng di dịch cư đó là việc đốt phá rừng làm nương rẫy, gây tổn hại đến môi trường rừng, nguy cơ suy giảm diện tích rừng vẫn còn cao. Không những thế, việc di dân còn tiềm ẩn các yếu tố rất phức tạp về an ninh trật tự. Tuy nhiên, nguồn kinh phí để thực hiện sắp xếp ổn định dân cư tại các khu vực có nguy cơ chịu ảnh hưởng thiên tai, vùng đồng bào di dịch cư tự do, vùng thiếu đất, thiếu nước sản xuất, sinh hoạt lại đang rất khó khăn.

Về quốc phòng, an ninh khu vực biên giới: Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn còn tiểm ẩn một số yếu tố phức tạp, nhất là tình hình tội phạm, an ninh biên giới, hoạt động lợi dụng tôn giáo, tuyên truyền đạo trái pháp luật, xuất nhập cảnh trái phép, di dịch cư tự do, xâm canh, xâm cư vẫn còn xảy ra.

Những giải pháp tiếp tục thúc đẩy phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia ở Lai Châu những năm tới

Một là, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, đặt sự phát triển kinh tế của Lai Châu trong liên kết với tổng thể toàn vùng Tây Bắc và cả nước.

Trong ba năm tới, tập trung triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước; Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng bộ tỉnh Lai Châu, các đề án, nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã đề ra. Thực hiện hiệu quả các đề án trên lĩnh vực nông - lâm nghiệp, xây dựng nông thôn mới, chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp giai đoạn 2017 - 2021 đã được ban hành; tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, đẩy mạnh liên kết giữa nông dân với các doanh nghiệp trong sản xuất, mở rộng các vùng sản xuất tập trung, nhất là lúa chất lượng cao; các loại cây, như chè, quế, sơn trà, mắc-ca; chăn nuôi bò sữa; nuôi trồng thủy sản lòng hồ thuỷ điện. Đặc biệt chú trọng thu hút các nhà đầu tư vào phát triển nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp chất lượng cao. Từng bước hình thành mô hình liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với người dân trong phát triển nông nghiệp. Thực hiện gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến với thị trường. Dựa trên nhu cầu của thị trường để tổ chức phát triển các loại cây nông sản hàng hóa, có giá trị kinh tế cao. Trên cơ sở đó để bảo tồn tốt và tái sinh rừng, nâng dần tỷ lệ che phủ rừng. Thực hiện phương châm “giàu có cùng với rừng”.

Đẩy mạnh thu hút các nhà đầu tư có thực lực vào các lĩnh vực ưu tiên đầu tư để khai thác tiềm năng, thế mạnh phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhất là nông - lâm nghiệp, thủy điện, du lịch, thương mại, dịch vụ. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh; chú trọng các giải pháp hỗ trợ các ngành công nghiệp của địa phương, nhất là chế biến nông - lâm sản. Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ thương mại, tăng cường công tác quản lý thị trường; tăng cường thu hút đầu tư phát triển các khu, điểm du lịch theo quy hoạch, phát triển đa dạng sản phẩm du lịch mang đậm bản sắc văn hóa các dân tộc Lai Châu.

Xác định tập trung sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngân sách để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ là khâu đột phá và tiền đề của sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của Lai Châu trong thời gian tới. Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phân bổ lực lượng sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hóa giữa các địa phương trong tỉnh và giữa Lai Châu với các địa phương trong cả nước và nước bạn. Để thực hiện tốt đột phá này, phải thay đổi cách tiếp cận từ khâu quy hoạch, lựa chọn các ưu tiên đến phương thức huy động nguồn lực và thủ tục triển khai các dự án. Những năm tới cần tăng cường huy động tốt mọi nguồn lực để đầu tư đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, ưu tiên bố trí vốn cho một số công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, có sức lan tỏa, hiệu quả cao, tạo nền tảng phát triển các lĩnh vực khác.

Đi đôi với đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội tại của Lai Châu là thúc đẩy gắn kết sự phát triển của Lai Châu trong xu hướng phát triển chung của toàn vùng Tây Bắc. Trước hết là đẩy mạnh sự liên kết về kết cấu hạ tầng giao thông cứng, hạ tầng viễn thông, du lịch, điện lưới; kết nối về định hướng chiến lược phát triển kinh tế hàng hóa của Lai Châu với các tỉnh trong vùng. Trong đó, có sự liên kết về phát triển sản phẩm hàng hóa, kết nối trong xây dựng, quảng bá thương hiệu, xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư, quản lý chất lượng sản phẩm để hình thành những sản phẩm có chất lượng và thương hiệu không chỉ của Lai Châu mà còn gắn với thương hiệu của toàn vùng Tây Bắc nói riêng và của Việt Nam nói chung. Từng bước gắn kết thị trường sản phẩm hàng hóa đặc hữu, chất lượng cao của Lai Châu với thị trường vùng Tây Bắc và thị trường các tỉnh đồng bằng, với cả nước và các địa phương vùng Tây Nam của Trung Quốc.

Hai là, tích cực cải thiện các vấn đề xã hội và an sinh xã hội.

Về giáo dục, tập trung thực hiện khâu đột phá về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Đối với Lai Châu, đây là khâu đột phá mang tính quyết định để tạo ra sức mạnh tổng hợp, có ảnh hưởng lâu dài đến việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường, phục vụ đắc lực cho chiến lược phát triển bền vững.

Trước mắt, tập trung nỗ lực để thực hiện thắng lợi nội dung Nghị quyết số 06-NQ/TU, ngày 30-9-2016, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu, về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giai đoạn 2016 - 2020. Trong đó, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có năng lực thực tiễn, giàu nhiệt huyết, sáng tạo trong tổ chức và quản trị địa phương. Thực hiện tốt cơ chế nâng cao chất lượng nhân lực là con em các dân tộc đặc biệt khó khăn (như dân tộc Si La, Cống, Mảng, La Hủ...).

Về lâu dài, tăng cường dự báo, xây dựng định hướng phân bố, đào tạo nhân lực theo yêu cầu phát triển của các lĩnh vực có tiềm năng của Lai Châu, như lâm nghiệp, phát triển nông nghiệp chất lượng cao, chế biến nông sản có giá trị kinh tế cao, thương mại biên giới. Bố trí hợp lý hệ thống trường phổ thông, nâng cao chất lượng các cơ sở dạy nghề, bảo đảm dạy nghề sát với nhu cầu phát triển của cơ cấu kinh tế gắn với thị trường.

Về y tế và bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tốt các nhiệm vụ đã được đề ra trong Đề án nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống y tế cấp cơ sở, giai đoạn 2016 - 2020 của Tỉnh ủy Lai Châu. Trong đó chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ y tế cơ sở, coi đây là giải pháp vừa trước mắt, vừa lâu dài, là khâu quyết định đến chất lượng y tế cơ sở trong những năm tới. Đi liền với đó là sử dụng hiệu quả nguồn lực để trang bị có lộ trình, trọng tâm các thiết bị y tế mới cho công tác khám, chữa bệnh. Trước mắt phấn đấu đa số các cơ sở y tế đạt chuẩn quốc gia.

Thực hiện rà soát, củng cố hệ thống mạng lưới an sinh xã hội, nhất là bảo đảm an sinh xã hội đối với nhóm người cao tuổi không còn khả năng lao động, gia đình chính sách, các hộ đồng bào ở các huyện còn đặc biệt khó khăn, như huyện Mường Tè, Nậm Nhùn, Sìn Hồ, Phong Thổ; từng bước nâng cao khả năng tự thích ứng bền vững của các hộ khó khăn. Trước mắt tập trung vào các dân tộc đặc biệt khó khăn, vùng sâu, các xã biên giới; giám sát hiệu quả chương trình cấp thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, bảo đảm đúng người, đúng chế độ; thực hiện giảm nghèo và bảo đảm sinh kế bền vững cho các hộ dân tái định cư trong quá trình phát triển.

Ba là, nỗ lực bảo vệ môi trường, chú trọng giữ gìn quỹ rừng.

Chú trọng cải thiện vấn đề sinh kế của người dân trước yêu cầu phát triển mới. Tích cực tạo điều kiện chuyển đổi sinh kế từ tự cấp, tự túc sang sản xuất các cây, con có giá trị kinh tế cao trên cơ sở gắn với rừng, bảo vệ, tăng dần được quỹ rừng. Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng trước mắt tập trung vào các vị trí nương rẫy kém hiệu quả, năng suất thấp. Theo đó, trong những năm tới, tỉnh Lai Châu tập trung sắp xếp ổn định sản xuất và đời sống lâu dài, bảo đảm an ninh trật tự và bảo vệ môi trường sinh thái bền vững cho đồng bào tại các khu vực có nguy cơ bị ảnh hưởng của thiên tai (lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, giông, lốc,...), khu vực sinh sống của đồng bào di dịch cư tự do. Thực hiện tốt công tác quy hoạch một cách khoa học, căn cơ về sắp xếp ổn định dân cư vùng đồng bào tại các khu vực có nguy cơ bị ảnh hưởng thiên tai, khu vực sinh sống của đồng bào di dịch cư tự do; phát huy hiệu quả của việc chi trả dịch vụ môi trường rừng để khuyến khích người dân giữ rừng đồng thời từng bước nâng cao khả năng sinh kế chung sống với rừng của các hộ dân. Từ đó vừa cải thiện được sinh kế của người dân, vừa bảo vệ quỹ rừng, bảo vệ nguồn nước lâu dài cho phát triển tổng thể và giảm chi phí, suất đầu tư cho việc duy tu, sửa chữa, nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi.

Bốn là, tăng cường bảo đảm quốc phòng, an ninh, chú trọng tuyến biên giới.

Thực hiện tốt việc phối hợp giữa các lực lượng, chủ động nắm chắc tình hình, bảo đảm quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tiếp tục phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ở các xã biên giới. Thực hiện đồng bộ các giải pháp về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa gắn với việc giữ gìn và bảo vệ đường biên, mốc giới nhằm giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia. Thực hiện tốt việc phát huy trí tuệ và nhiệt huyết của đồng bào dân tộc trong công tác này. Chú trọng gắn kết giữa bảo vệ biên giới với quốc phòng, an ninh nội địa. Phát huy vai trò nòng cốt của các lực lượng liên quan trong việc nhanh nhạy nắm bắt tình hình, diễn biến, xử lý một cách sáng tạo, phù hợp với luật pháp quốc tế các vấn đề biên giới phát sinh./.