Định hướng và giải pháp phát triển các ngành kinh tế chủ yếu đến năm 2020
Những thành tựu đạt được
Sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, các ngành kinh tế đều có bước phát triển, quy mô nền kinh tế tăng lên nhiều lần; giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá thực tế năm 2010 tăng gấp 3,26 lần so với năm 2000. Năm 2011, GDP đạt khoảng 120 tỷ USD, bình quân đầu người đạt 1.375 USD. Nước ta bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình và đã hoàn thành trước thời hạn 6/8 nhóm mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc. Kết cấu hạ tầng ngày càng phát triển, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành và từng bước hoàn thiện. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội đều có bước tiến bộ. Chính trị xã hội ổn định vững chắc, quốc phòng, an ninh và chủ quyền quốc gia được giữ vững, công tác đối ngoại đạt nhiều thành tựu, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Công nghiệp và xây dựng có bước phát triển tích cực, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm trong giai đoạn 2001 - 2010 đạt trên 9%/năm, với các sản phẩm đa dạng, phong phú và chất lượng được nâng lên, nhiều sản phẩm đã có uy tín và khẳng định thương hiệu trên thị trường trong nước và thế giới. Tỷ trọng công nghiệp chế biến trong sản xuất công nghiệp tăng nhanh, từ 8,7% năm 2000 lên 89,8% năm 2011. Hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất trên phạm vi cả nước được hình thành, đến nay đã có 286 khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập đóng vai trò quan trọng và có tác động lan tỏa trong phát triển công nghiệp của các vùng, miền, địa phương. Các khu công nghệ cao ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước, bước đầu có sản phẩm công nghệ chất lượng cao, là nền tảng quan trọng để hình thành nền kinh tế tri thức trong tương lai.
Nông nghiệp đạt mức tăng trưởng khá và ổn định theo hướng sản xuất hàng hóa, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 - 2010 đạt 3,6%/năm. Năng suất lao động, năng suất cây trồng, vật nuôi tăng lên. Đã hình thành các vùng chuyên canh lúa gạo, cà-phê, cao-su, hạt tiêu, thủy sản, rừng nguyên liệu. Nông nghiệp đóng vai trò ngày càng cốt yếu đối với nền kinh tế, nhất là trong các giai đoạn kinh tế khó khăn, nông nghiệp Việt Nam vẫn luôn phát triển, góp phần ổn định kinh tế - xã hội đất nước, đồng thời là lĩnh vực có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế. Năm 2011 sản lượng lúa đạt mức kỷ lục 42,4 triệu tấn; kim ngạch nông sản, thủy sản xuất khẩu đạt 23 tỷ USD, cao gần gấp 10 lần kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng này năm 2001. Một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đứng hàng đầu thế giới, như xuất khẩu hạt điều xếp thứ nhất thế giới; xuất khẩu gạo, cà phê xếp thứ hai; hạt tiêu, chè xếp thứ năm; thủy sản xếp thứ mười. Nông nghiệp phát triển ổn định trong thời gian dài cùng với chính sách xây dựng nông thôn mới, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề tiểu, thủ công nghiệp,... đã khơi thông tiềm năng tăng trưởng của khu vực này và tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống của người dân.
Dịch vụ phát triển đa dạng và khá nhanh về quy mô, ngành nghề và thị trường với sự tham gia mạnh mẽ của các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế. Giai đoạn 2001 - 2010, tăng trưởng ngành dịch vụ khá ổn định, bình quân đạt gần 7,4%/năm. Khu vực dịch vụ đã tạo ra 32,8% việc làm của nền kinh tế. Các ngành dịch vụ, thương mại, tài chính, viễn thông, vận tải phát triển mạnh, trình độ công nghệ và chất lượng dịch vụ ngày càng cao. Sản phẩm du lịch ngày càng đa dạng, phong phú, lượng khách du lịch quốc tế năm 2010 đạt 4,3 triệu lượt người, gấp đôi so với năm 2000; năm 2011 đạt 6 triệu lượt người.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, cơ cấu nền kinh tế còn nhiều bất hợp lý, thể chế kinh tế thị trường tuy đã từng bước được hình thành và phát triển, nhưng vẫn còn thiếu đồng bộ. Quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường có mặt còn yếu kém, chưa theo kịp yêu cầu phát triển; kết cấu hạ tầng phát triển chậm, thiếu đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, chậm được cải thiện, cơ cấu lao động theo ngành nghề, trình độ chưa hợp lý, thiếu nhiều chuyên gia trình độ cao, đội ngũ quản lý, nhà kinh doanh giỏi và công nhân lành nghề.
Định hướng các ngành kinh tế chủ yếu
Đất nước bước vào thời kỳ thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 trong bối cảnh kinh tế thế giới rất khó khăn, các nền kinh tế hàng đầu, như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản,... trong khi chưa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế bắt đầu từ năm 2008 lại đứng trước nguy cơ bước vào vòng suy thoái mới,... Bên cạnh đó, thế giới lại có một số xu thế chuyển dịch mới:
- Thay đổi mạnh mẽ của cơ cấu thị trường toàn cầu do sự dẫn dắt của khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức; sự khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên; sự cạnh tranh gay gắt của các chuỗi giá trị đã thúc đẩy các quốc gia cải tiến công nghệ để sử dụng tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, thân thiện với môi trường.
- Với sự phát triển mạnh mẽ của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và ngày càng có nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa các quốc gia, khu vực,... đã góp phần làm cho quá trình toàn cầu hóa ngày càng được điều phối, định hướng tốt hơn, đặc biệt là thị trường lao động quốc tế chưa bao giờ liên thông và năng động như hiện nay. Đó chính là cơ hội cho các quốc gia đang phát triển cung ứng lao động và thu hút chất xám, tri thức và kinh nghiệm quốc tế phát triển các ngành kinh tế.
- Sự phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế trong khối BRICS(1) sẽ tạo ra những cơ hội kinh tế rất lớn cho các nền kinh tế đang phát triển hướng về xuất khẩu như Việt Nam.
Những diễn biến này sẽ tác động mạnh đến kinh tế nước ta, buộc chúng ta phải tính toán trong hoạch định chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế thời gian tới.
Quán triệt quan điểm “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược” đã được đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, các ngành kinh tế chủ yếu sẽ được chú trọng theo những quan điểm sau:
Một là, duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, từng bước thực hiện “tăng trưởng xanh”, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, thực hiện tốt bảo vệ môi trường.
Hai là, khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, đẩy mạnh ứng dụng tiến để tăng năng suất lao động, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, chất lượng tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.
Ba là, phát triển công nghiệp với cơ cấu ngành nghề đa dạng, phát triển mạnh công nghiệp phụ trợ làm tăng giá trị gia tăng nội địa trong mỗi sản phẩm dịch vụ và ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm công nghiệp, xây dựng nền “công nghiệp xanh”, đẩy mạnh phát triển công nghệ cao tại các đô thị lớn. Từng bước phát triển ngành công nghiệp môi trường.
Bốn là, phát triền nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, phát huy thế mạnh của từng vùng; phát triển sản xuất nông sản hàng hóa có hiệu quả, chất lượng, chú trọng việc bảo đảm các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường; phát triển bền vững các làng nghề.
Năm là, phát triển các vùng và địa phương. Tập trung ưu tiên phát triển trước các vùng kinh tế trọng điểm, có khả năng bứt phá và dẫn dắt sự phát triển, đồng thời chú ý tới việc hỗ trợ các vùng kém phát triển và có điều kiện khó khăn hơn, nhằm tạo ra một sự cân đối nhất định về không gian phát triển; phát huy lợi thế của từng vùng, tạo sự liên kết giữa các vùng, từng bước thu hẹp khoảng cách về xã hội và tiến tới giảm bớt sự chênh lệch về kinh tế giữa các vùng và địa phương.
Đại hội XI của Đảng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển các ngành kinh tế đến năm 2020, gắn với 3 đột phá chiến lược:
Thứ nhất, các ngành công nghiệp và xây dựng tập trung nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm. Phát triển các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, ưu tiên phát triển những sản phẩm có chất lượng, giá trị gia tăng cao, áp dụng công nghệ mới, công nghệ sạch, sử dụng tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường. Quá trình chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp được đẩy mạnh theo hướng tăng nhanh công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại. Các ngành công nghiệp nền tảng được ưu tiên để đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế trong giai đoạn phát triển tới.
- Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, hình thành cơ chế liên kết, hợp tác, phân công sản xuất trong việc tham gia chế tạo từng công đoạn sản phẩm. Thực hiện phân bố không gian công nghiệp phù hợp nhằm phát huy lợi thế so sánh của các vùng, miền và tạo điều kiện để liên kết ngành mang lại hiệu quả cao.
- Phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cơ khí, công nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường.
- Tập trung lấp đầy các khu công nghiệp gắn với việc đầu tư bổ sung các công trình, dịch vụ hạ tầng xã hội (nhà ở, trường học, y tế, chợ,...) và thực hiện tốt bảo vệ môi trường.
Thứ hai, thực hiện đổi mới mạnh mẽ tư duy để hướng tới phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới có năng lực cạnh tranh cao và thương hiệu tốt. Phát triển nông nghiệp toàn diện, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn thực phẩm; phát huy lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên và sinh thái của mỗi vùng, mỗi địa phương. Tập trung đầu tư khâu nghiên cứu và phát triển giống cây trồng, vật nuôi, nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học. Khuyến khích tích tụ ruộng đất, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, các “cánh đồng mẫu lớn”; các trang trại nuôi trồng thủy, hải sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm lớn; phát triển sản xuất gắn với bố trí, chuyển đổi hiệu quả cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn. Trong thập niên tới, ngành nông nghiệp nước ta cần tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau:
- Xây dựng và phát triển đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả theo hướng liên kết, hợp tác giữa các hộ nông dân với doanh nghiệp, các hợp tác xã, tổ hợp tác, hiệp hội ngành hàng để sản xuất hàng hóa quy mô lớn, tập trung, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu sản phẩm. Trong đó, doanh nghiệp giữ vai trò chủ đạo là người thiết kế xây dựng sản phẩm, đầu vào, đầu ra, giá thành, thị trường tiêu thụ, hướng dẫn, tổ chức sản xuất, đầu tư hỗ trợ kinh tế hộ phát triển theo hình thức trang trại, sản xuất hàng hóa lớn.
- Sản xuất theo mô hình “cánh đồng mẫu lớn” cần được tổng kết, đánh giá và mở rộng, nhưng trước hết cần mở rộng trong sản xuất lúa gạo, rau, hoa, các cây nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu. Các doanh nghiệp, địa phương sản xuất lúa gạo xuất khẩu phải khẩn trương quy hoạch xây dựng vùng nguyên liệu hàng hóa, hình thành các “cánh đồng mẫu lớn”, sản xuất theo đơn đặt hàng, kế hoạch sản xuất, bảo đảm tiêu chuẩn, năng suất, chất lượng cao, giảm giá thành, tăng lợi nhuận và kết nối bằng hài hòa lợi ích của các chủ thể từ khâu sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, phân phối sản phẩm, tạo ra chuỗi giá trị có tính cạnh tranh và hiệu quả cao. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo trước mắt tham gia liên kết để hình thành chuỗi giá trị dựa trên mô hình “cánh đồng mẫu lớn” và về lâu dài phải coi đây là mô hình tổ chức sản xuất chủ yếu để bảo đảm ổn định nguồn hàng và lợi ích của doanh nghiệp.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ vào tất cả các khâu, từng bước hiện đại nền sản xuất nông nghiệp. Tập trung tự bảo đảm nguồn và khối lượng giống lúa, giảm dần sự phụ thuộc vào nhập khẩu giống lúa hằng năm từ nước ngoài, ứng dụng khoa học công nghệ vi sinh để chọn tạo và sử dụng giống mới năng suất, chất lượng cao; áp dụng quy trình canh tác, nuôi trồng tiên tiến, quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP), an toàn thực phẩm; phòng, chống dịch bệnh; bảo quản chế biến, giảm tổn thất sau thu hoạch; tăng cường cơ giới hóa trong các khâu; bố trí cơ cấu giống, mùa vụ, sản phẩm phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất để nông nghiệp nước ta sớm đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực.
- Phát triển ngành trồng trọt theo hướng tiếp tục giữ ổn định diện tích cây trồng đã hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung, có lợi thế cạnh tranh, còn tiềm năng để gia tăng giá trị, như gạo, cao-su, cà-phê, hạt điều, hồ tiêu, sắn; vùng nguyên liệu về mía, chè gắn với các nhà máy chế biến và xuất khẩu. Phát triển theo chiều sâu, trên cơ sở đa dạng hóa cây trồng, sản phẩm, phát huy lợi thế vùng, miền, tiếp cận thị trường nhanh; áp dụng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao; đẩy nhanh cơ giới hóa đồng bộ các khâu từ sản xuất đến thu hoạch, chế biến, bảo quản để giảm tổn thất sau thu hoạch, hạ giá thành, nâng cao giá trị gia tăng hàng nông sản và thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao thu nhập cho người sản xuất.
- Phát triển ngành chăn nuôi thành ngành sản xuất hàng hóa, theo phương thức trang trại công nghiệp, bán công nghiệp, an toàn dịch bệnh, đáp ứng nhu cầu thực phẩm, bảo đảm chất lượng cho tiêu dùng và xuất khẩu, bảo vệ và giảm ô nhiễm môi trường. Tập trung phát triển sản phẩm chăn nuôi có lợi thế và khả năng cạnh tranh, như lợn, bò, gia cầm; đồng thời phát triển sản phẩm chăn nuôi đặc sản của vùng, địa phương; cải tạo và nâng cao chất lượng giống, áp dụng quy trình chăn nuôi tiên tiến, sử dụng thức ăn chăn nuôi công nghiệp, tăng cường công tác thú y, phòng, chống dịch bệnh, phát triển chăn nuôi hiệu quả, bền vững.
- Phát triển lâm nghiệp thành ngành kinh tế quan trọng theo hướng toàn diện từ quản lý, bảo vệ, trồng rừng, cải tạo làm giàu rừng đến khai thác, chế biến tăng năng lực, hiệu lực bảo vệ môi trường, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, tập trung bảo vệ diện tích rừng hiện có, khai thác hiệu quả quỹ đất được quy hoạch để trồng rừng sản xuất nhằm tăng tỷ lệ rừng kinh tế trong tổng diện tích rừng của cả nước, phát triển mạnh nghề trồng rừng sản xuất để giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân miền núi, nhất là đồng bào dân tộc, đáp ứng nhu cầu gỗ và các lâm sản khác cho tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời chú trọng phát triển vành đai rừng ngập mặn ven biển vừa giúp phát triển nuôi trồng thủy sản, vừa chống sạt lở, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
- Phát triển thủy sản được coi là một mũi nhọn cần tập trung đầu tư để khai thác tiềm năng, lợi thế về mặt nước, khí hậu nhằm tạo bước đột phá, đặc biệt là xuất khẩu. Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng công nghiệp, hiện đại, đa dạng sản phẩm, có hiệu quả, sức cạnh tranh cao và bền vững, bảo đảm chủ động nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu. Đồng bằng sông Cửu Long được xác định là địa bàn tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng để phát triển mạnh các loại thủy sản, đặc biệt là cá tra, tôm, nhuyễn thể và các loại thủy sản có giá trị cao khác. Trong quá trình phát triển ngành nuôi trồng thủy sản phải bám sát quy hoạch. Quá trình mở rộng diện tích nuôi thâm canh năng suất cao phải bảo đảm áp dụng công nghệ cao về nuôi trồng, quy trình công nghệ sinh sản nhân tạo các đối tượng nuôi chủ lực... Bên cạnh đó, phải chú trọng đầu tư cho hệ thống xử lý nước thải, bảo đảm nuôi đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường, phòng tránh dịch bệnh phát sinh gắn với các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm ngay từ khâu nuôi trồng. Đồng thời, tăng cường hệ thống thú y thủy sản nhằm kiểm soát chặt chẽ chất lượng con giống. Phát triển nhanh lực lượng khai thác xa bờ gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường biển theo hướng đầu tư trang bị phương tiện và công nghệ hiện đại, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá, hệ thống thông tin liên lạc; cơ cấu lại lực lượng đánh bắt gần bờ, có chính sách hỗ trợ ngư dân chuyển đổi nghề, tạo việc làm, cải thiện đời sống cũng được xác định là nhiệm vụ quan trọng từ nay đến năm 2020.
Thứ ba, các ngành dịch vụ được đẩy mạnh, nhất là các dịch vụ có giá trị, hàm lượng tri thức cao, tiềm năng lớn, có lợi thế và có sức cạnh tranh, như du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế; hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, logistics, dịch vụ phát triển phần mềm công nghệ thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác. Đẩy mạnh tham gia mạng phân phối toàn cầu, phát triển nhanh hệ thống phân phối các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước; xây dựng thương hiệu hàng hóa và dịch vụ Việt Nam.
Thứ tư, hệ thống kết cấu hạ tầng được đầu tư đồng bộ, hiện đại, có ưu tiên những trọng tâm, trọng điểm trong phát triển hệ thống.
- Ưu tiên đầu tư xây dựng, nâng cấp và mở rộng các trục giao thông đường bộ quốc gia, đến năm 2015 hoàn thành cơ bản một số đoạn trọng điểm và đến năm 2020 hoàn thành nâng cấp toàn tuyến. Dự kiến đến năm 2020 đường bộ cao tốc đạt tổng chiều dài 2.000 km.
- Cải tạo, nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có đạt cấp tiêu chuẩn kỹ thuật đường sắt quốc gia. Phát triển giao thông vận tải bánh sắt tại các đô thị, đường sắt nội - ngoại ô làm nòng cốt trong vận tải hành khách công cộng. Nghiên cứu đầu tư mới tuyến đường sắt khổ 1.435mm nối Thành phố Hồ Chí Minh với Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Vũng Tàu.
- Rà soát lại quy hoạch, tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống cảng biển quốc gia, các cảng cửa ngõ quốc tế, các bến cảng nước sâu tại ba vùng kinh tế trọng điểm có khả năng tiếp nhận các tầu công-ten-nơ thế hệ mới, các cảng tổng hợp, cảng chuyên dùng, cảng hành khách đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế. Đầu tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng cảng biển, bao gồm bến cảng, luồng vào cảng, giao thông đến cảng và hệ thống dịch vụ hỗ trợ sau cảng. Tin học hóa các hoạt động dịch vụ cảng.
- Hoàn thành nâng cấp các tuyến đường thủy nội địa chính đạt cấp kỹ thuật quy định; tập trung cải tạo, chỉnh trị một số đoạn tuyến quan trọng; tăng chiều dài các đoạn tuyến sông được quản lý khai thác. Tập trung đầu tư phát triển vận tải đường sông ở đồng bằng sông Cửu Long; khai thác hiệu quả vận tải đường thủy trên sông Hồng, các tuyến ven biển. Đầu tư chiều sâu, nâng cấp và xây dựng mới các cảng đầu mối, bến hàng hóa và hành khách ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng.
- Hoàn thành cơ bản việc nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới một số cảng hàng không. Ưu tiên đầu tư đồng bộ và hiện đại hóa 5 sân bay quốc tế, gồm các sân bay Nội Bài, Long Thành, Cam Ranh, Cần Thơ, Đà Nẵng. Trong đó, sân bay Nội Bài và Long Thành sẽ được tập trung đầu tư thành các sân bay có quy mô và chất lượng phục vụ ngang tầm với các cảng hàng không quốc tế lớn trong khu vực.
Một số giải pháp chủ yếu
Để thực hiện những định hướng và nhiệm vụ phát triển các ngành kinh tế như đã nêu ở trên, cần tiếp tục triển khai một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển các ngành kinh tế và kết cấu hạ tầng kinh tế, các vùng, địa phương, bảo đảm tính đồng bộ, liên ngành trên phạm vi cả nước theo quan điểm và yêu cầu mới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, vùng công nghiệp trọng điểm và các khu, cụm công nghiệp đồng bộ với quy hoạch phát triển nguồn nhân lực: hệ thống cơ sở dạy nghề, các công trình hạ tầng xã hội phục vụ người lao động. Cơ cấu lại nền công nghiệp theo hướng phát triển mạnh những ngành có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, từng bước có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các công đoạn sản xuất và mạng lưới phân phối toàn cầu.
Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, bảo đảm hiệu quả và tính khả thi. Coi trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch và xử lý nghiêm các vi phạm quy hoạch.
Hai là, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực và khuyến khích phát triển tinh thần doanh nghiệp. Phấn đấu hình thành đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nghệ, nghiên cứu phát triển, quản lý nhà nước và quản trị doanh nghiệp có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thông hiểu pháp luật Việt Nam và quốc tế, có lập trường và quan điểm chính trị vững vàng, có khả năng hội nhập quốc tế, có tác phong công nghiệp, gắn bó với nghề, với doanh nghiệp, tạo ra một thế hệ doanh nhân mới, có tinh thần kinh doanh bền chí, phát triển doanh nghiệp, làm giàu cho mình và cho xã hội; tương lai sẽ trở thành những doanh nhân tầm cỡ khu vực. Tăng cường đào tạo nghề cho lao động, đặc biệt là lao động kỹ thuật cao.
Rà soát, sắp xếp, củng cố, mở rộng hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành công nghiệp (các trường đại học, cao đẳng nghề, trung cấp nghề,...) theo hướng tổ chức đào tạo sát hơn với yêu cầu của xã hội. Ưu tiên phát triển ở các vùng kinh tế trọng điểm một số trường cao đẳng nghề đạt trình độ quốc tế nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trực tiếp sản xuất, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Phát triển các lớp dạy nghề hoặc cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp; thực hiện liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp với các cơ sở dạy nghề, gắn việc dạy lý thuyết tại các cơ sở dạy nghề với thực hành tại doanh nghiệp, tạo nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp với yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp.
Ba là, tập trung và thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng đồng bộ. Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ. Tiến hành đầu tư theo kế hoạch trung hạn để chủ đầu tư chủ động bố trí nguồn vốn đúng tiến độ và bảo đảm hiệu quả. Rà soát, hoàn thiện các quy định của pháp luật về đầu tư công, mua sắm công. Sửa đổi cơ chế phân cấp đầu tư và nâng cao năng lực quản lý đầu tư theo hướng người quyết định đầu tư phải cân đối khả năng bố trí vốn trước khi phê duyệt dự án đầu tư, chịu trách nhiệm quyết định hình thức lựa chọn nhà thầu và chất lượng, hiệu quả của dự án.
- Thu hút mạnh và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Đẩy mạnh vận động các nhà tài trợ tiếp tục cung cấp ODA để phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là các công trình lớn. Thời gian tới phải tập trung rà soát, sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan, ưu tiên bố trí vốn đối ứng và tháo gỡ khó khăn để đẩy nhanh tiến độ giải ngân và hoàn thành các dự án.
- Thu hút mạnh các thành phần kinh tế, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng, bảo đảm lợi ích thỏa đáng của nhà đầu tư. Hoàn thiện quy định pháp lý, cơ chế, chính sách khuyến khích các hình thức hợp tác, như hợp tác đầu tư giữa Nhà nước và tư nhân (PPP), BT, BOT,...
- Đổi mới cơ chế, chính sách huy động mạnh nguồn lực đất đai vào phát triển hạ tầng. Có chính sách khai thác địa tô chênh lệch do xây dựng công trình hạ tầng đem lại để đầu tư phát triển hạ tầng. Thực hiện cơ chế thị trường thông qua việc đấu giá quyền sử dụng đất đối với các dự án kinh doanh để tạo vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Có chính sách phù hợp thu hồi đất để tạo vốn hỗ trợ cho xây dựng công trình hạ tầng. Chính phủ đang khẩn trương trình Trung ương và Quốc hội về sửa đổi Luật Đất đai theo tinh thần này.
Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Rà soát, hoàn thiện thể chế để tạo môi trường thuận lợi thu hút mạnh mẽ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm thông thoáng, thuận lợi, khắc phục phiền hà và giảm chi phí cho sản xuất, kinh doanh. Khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước. Hoàn thiện cơ chế phân cấp để vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới, vừa bảo đảm sự quản lý thống nhất của cấp trên, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
Đại hội XI của Đảng chỉ rõ con đường phát triển đất nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã nêu rõ các mục tiêu phát triển các lĩnh vực, các ngành kinh tế lớn. Trước mắt chúng ta là con đường dài, còn nhiều gian khó, nhưng với bài học kinh nghiệm quý báu được tích lũy qua 25 năm đổi mới và quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân, nhất định đất nước ta sẽ đạt mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020./.
Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992  (22/02/2013)
Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế  (22/02/2013)
Hàng nghìn người đến tìm hiểu tư liệu về Hoàng Sa  (21/02/2013)
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế  (21/02/2013)
Bổ sung quy định về chế độ tiền lương đối với cán bộ công chức  (21/02/2013)
Xây dựng lực lượng cảnh vệ Việt Nam đạt tầm cao thế giới  (21/02/2013)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên