Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nhằm làm sáng tỏ hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Lời Bộ Biên tập: Ngày 8-1-2005, đồng chí Trần Đức Lương, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Nước đã đến thăm và phát biểu với Hội đồng Lý luận Trung ương tại kỳ họp thứ 13 của Hội đồng. Tạp chí Cộng sản xin trân trọng giới thiệu bài phát biểu quan trọng này với bạn đọc.
Hôm nay, tôi rất vui mừng được gặp các đồng chí trong Hội đồng Lý luận Trung ương cùng các đồng chí phụ trách các chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước và nhiều đồng chí đại diện cho các cơ quan, ban, ngành, học viện, viện nghiên cứu, trường đại học đang trực tiếp quản lý và nghiên cứu lý luận. Nhân dịp đầu năm mới - 2005 và Tết Ất Dậu sắp đến, tôi chúc các đồng chí và đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận thuộc các thế hệ trên mọi miền đất nước, cùng gia đình luôn mạnh khoẻ, hạnh phúc, thành đạt trong công tác và cuộc sống, có nhiều đóng góp tích cực hơn nữa cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tôi được biết, trong hơn 3 năm qua, Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2001 - 2005 đã kế thừa, phát huy tốt kinh nghiệm của Hội đồng tiền nhiệm, thường xuyên bám sát chức năng và nhiệm vụ được Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao, tích cực đổi mới cách thức hoạt động, thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan hữu quan, các chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước và nhiều nhà khoa học bên ngoài Hội đồng để triển khai tổng kết thực tiễn và nghiên cứu có kết quả nhiều vấn đề lý luận chính trị cơ bản phục vụ cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng mà trực tiếp là cho việc soạn thảo một số nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, và quan trọng hơn là cho việc soạn thảo các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.
Chỉ chưa đầy 4 năm, các đồng chí đã làm được nhiều việc:
- Góp phần xây dựng và trình Trung ương báo cáo "Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới", góp phần cung cấp những luận cứ khoa học có độ tin cậy cao để Trung ương ra Nghị quyết về vấn đề này. Bên cạnh đó, Hội đồng còn tích cực đóng góp ý kiến và cung cấp thông tin phục vụ soạn thảo các nghị quyết của Trung ương về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân; về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
- Các đồng chí đã tổ chức 3 Hội thảo lớn góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn bức xúc mà Đảng và nhân dân đang có sự quan tâm đặc biệt, như: vấn đề "Đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân"; "Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam"; "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở Việt Nam hiện nay". Ngoài ra, thực hiện nhiệm vụ Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao, Hội đồng đã tham gia Hội thảo Trung - Việt về "Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường - Kinh nghiệm của Trung Quốc, kinh nghiệm của Việt Nam", đứng ra tổ chức Hội thảo Việt - Trung về "Xây dựng Đảng cầm quyền - Kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc".
- Các đồng chí đã thực hiện có kết quả tốt một số chuyên đề do Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao: "Vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền, các hình thức thực hiện dân chủ"; "Quan niệm của một số Đảng Cộng sản về chủ nghĩa xã hội", "Tác động nhiều mặt của toàn cầu hóa đến công cuộc phát triển của đất nước ta". Các chuyên đề này đã cung cấp những thông tin có giá trị tham khảo bổ ích.
- Đã phối hợp với các cơ quan hữu quan, bước đầu chuẩn bị các chuyên đề để giới thiệu với Bộ Chính trị, Ban Bí thư những vấn đề quan trọng về lý luận và những thông tin mới có liên quan tới việc hoạch định đường lối phát triển đất nước. Hai chuyên đề đầu tiên đã được thực hiện về "Quan niệm mới trên thế giới về chủ nghĩa xã hội" và "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", nhìn chung được đánh giá tốt.
- Đã tích cực tham gia nghiên cứu, đề xuất luận cứ khoa học để đấu tranh bác bỏ những quan điểm sai trái với đường lối, quan điểm của Đảng. Từ hàng trăm bài viết của các nhà khoa học trong giới nghiên cứu lý luận nước ta, các đồng chí đã tuyển chọn và xuất bản hai tập sách "Vững bước trên con đường đã chọn" và "Lẽ phải của chúng ta", cung cấp những luận cứ khoa học góp phần vào cuộc đấu tranh bác bỏ những luận điểm sai trái.
- Để góp phần cung cấp thông tin cho các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Hội đồng đã có một Bản tin. Chúng tôi thường xuyên nhận được Bản tin đó và nhận được từ Bản tin nhiều thông tin bổ ích. Nếu từ Bản tin này, rồi đây nâng lên thành một tạp chí nội bộ để thảo luận những vấn đề lý luận - thực tiễn không thể công bố rộng rãi, tôi tin chắc sẽ có hiệu quả cao hơn.
- Một kết quả nổi bật, mang đậm dấu ấn trong hoạt động của Hội đồng nhiệm kỳ này là đã chủ động đề xuất chủ trương tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới nhằm làm sáng tỏ hơn một số vấn đề chủ yếu về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc soạn thảo các văn kiện Đại hội X của Đảng. Đề xuất đó đã được Bộ Chính trị chấp thuận. Hội đồng đã hoàn thành tốt chức trách là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo tổng kết.
Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt biểu dương những kết quả bước đầu của Hội đồng Lý luận Trung ương, mong các đồng chí có nhiều đóng góp to lớn hơn nữa trong các hoạt động tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung vào những vấn đề bức xúc và cơ bản để tham mưu, tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước. Nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2005 của các đồng chí là tham gia thật sự có chất lượng việc soạn thảo văn kiện Đại hội X của Đảng.
Trong nhiệm kỳ này, Hội đồng chúng ta đứng trước nhiều vấn đề thực tiễn và lý luận bức xúc đòi hỏi phải tích cực góp phần giải quyết.
Nhờ đường lối đổi mới đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, lòng quyết tâm của nhân dân được nâng cao, chúng ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn. Mặc dầu vậy, chúng ta vẫn ở tình trạng một nước kém phát triển về kinh tế, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn rất thấp; nhiều vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc chậm được giải quyết; tình trạng quan liêu, tham nhũng còn rất trầm trọng; hoạt động của các thế lực thù địch sử dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo hòng làm cho đất nước mất ổn định diễn ra không lúc nào ngừng.
Về mặt lý luận, cũng còn nhiều vấn đề cơ bản cần tiếp tục nghiên cứu để làm rõ thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Hướng đi của một số bước tiếp theo là gì? Những yếu tố nào bảo đảm nó thực sự là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Những điều cần phải thường xuyên quan tâm để bảo đảm định hướng đã lựa chọn, ví như hành lang của từng giai đoạn phát triển quan hệ sản xuất, phân hóa giàu nghèo nhưng làm sao không trở thành phân cực xã hội, phân hóa giai cấp, không hình thành giai cấp đối kháng, ...? Vấn đề chế độ sở hữu, và thành phần kinh tế như thế nào để bảo đảm thực sự là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Thêm vào đó, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân tuy có phần nào được làm rõ qua Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, nhưng trong Đảng và trong xã hội cũng còn nhiều ý kiến? Những tiêu chí nào để phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020?
Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, cùng với việc bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, còn cần giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện. Liên quan đến vai trò của Đảng, việc nâng cao năng lực trí tuệ, phẩm chất đạo đức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là những vấn đề lý luận và thực tiễn bức xúc. Về Nhà nước, tuy từ Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII chúng ta đã chính thức sử dụng khái niệm Nhà nước pháp quyền, và chủ trương phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xem đó là một nhân tố cơ bản để phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng đây vẫn là một vấn đề mới về lý luận và thực tiễn. Nguyên tắc phổ quát của thiết chế chính trị - xã hội của nước ta: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" vẫn còn nhiều vấn đề rất cơ bản chưa đủ sáng tỏ.
Ý thức rõ trách nhiệm phải góp phần làm rõ những vấn đề đó, Hội đồng đã phối hợp với nhiều cơ quan khoa học và cơ quan chỉ đạo thực tiễn để nghiên cứu và đã mang lại những kết quả, đóng góp nhất định. Cuộc sống đang không ngừng vận động, nhiều vấn đề lý luận - thực tiễn đang trong quá trình tìm tòi. Cho nên, việc nghiên cứu không nên chốt lại, mà phải gợi mở, tham khảo ý kiến rộng rãi của nhiều người, kể cả những sách báo nước ngoài, sàng lọc, phân tích, rút ra kết luận.
Sau đây, tôi xin gợi một vài vấn đề nghiên cứu lý luận trong thời gian tới để các đồng chí tham khảo.
Thứ nhất, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tôi nghĩ rằng, "xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" là sự phát triển mang tính đường lối của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ những thành quả quan trọng và những kinh nghiệm đã được tích lũy, đúc rút sau gần 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ hơn sự gắn bó hữu cơ, biện chứng giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội. Muốn có chủ nghĩa xã hội, phải áp dụng những quy luật phổ biến của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phải biết khai thác triệt để những ưu thế của kinh tế thị trường, đồng thời phải xác định rõ hành lang (định hướng) cho từng giai đoạn phát triển, để có tác động tích cực và chủ động của mình làm giảm tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội và quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo đường lối đổi mới, một phương hướng cơ bản và lâu dài để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhờ những bước tiến bộ của Nhà nước trong quản lý kinh tế và đặc biệt là, nhờ tinh thần phấn đấu, lao động cần cù, sáng tạo, tích cực của nhân dân ta nên 20 năm đổi mới vừa qua chúng ta đã gặt hái được những thành tựu to lớn trên mặt trận kinh tế và các mặt hoạt động khác của xã hội. Bộ mặt của đất nước đã từng bước thay đổi, đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt, mặc dù chúng ta còn rất nhiều việc phải làm trên lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng trong quá trình hoạch định đường lối phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội đang còn có những ý kiến khác nhau, còn lấn cấn trong cách đánh giá. Có xu hướng hạ thấp hoặc phủ nhận kinh tế nhà nước, đề cao một chiều vai trò kinh tế tư nhân và muốn tập trung phát triển kinh tế tư nhân, muốn cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước bằng bất cứ giá nào. Vấn đề đặt ra là nếu tư nhân hóa toàn bộ nền kinh tế thì liệu nền kinh tế đó có phục vụ cho lợi ích chung của mọi tầng lớp nhân dân không? Trên thực tế, rất ít công ty tư nhân chịu bán hàng hóa với giá do Nhà nước quy định, ngay cả khi tình thế bắt buộc. Vừa qua, một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến giá thuốc chữa bệnh bị đẩy lên rất cao là do việc nhập khẩu và phân phối thuốc bị tư nhân chi phối. Vậy nếu chỉ tập trung vào phát triển kinh tế tư nhân, không coi trọng đúng mức phát triển kinh tế nhà nước có đúng không? Ngược lại, nếu chỉ tập trung các điều kiện vật chất vào phát triển kinh tế nhà nước, coi nhẹ phát triển kinh tế tư nhân thì làm sao huy động được nguồn nội lực to lớn (bao gồm nguồn lực vật chất và nguồn lực trí tuệ) trong xã hội để phát triển nhanh, để tạo công ăn việc làm cho nền kinh tế chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp? Vậy, quan niệm phát triển kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ mới như thế nào cho đúng? Điều này, tôi thấy đã được các đồng chí giải đáp phần nào trong tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới ở Việt Nam, nhưng vẫn còn không ít vấn đề cần tiếp tục làm rõ. Chẳng hạn, hiểu như thế nào về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, và quan trọng hơn - là làm thế nào để kinh tế nhà nước đóng được vai trò chủ đạo trong khi hiện nay số doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả cao, có sức cạnh tranh lớn, năng động... không nhiều?
Tổng kết lần này, các đồng chí nêu những ý kiến, phương án khác nhau về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế. Các đồng chí kiến nghị phương án xác định ở nước ta hiện nay có 3 chế độ sở hữu cơ bản (toàn dân, tập thể, tư nhân), thể hiện dưới 4 hình thức sở hữu: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp; trên cơ sở đó, hình thành 4 thành phần kinh tế tương ứng (kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế hỗn hợp). Trong các thành phần kinh tế đó, kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng. Tôi thấy phương án đó rất đáng được xem xét, nghiên cứu.
Thứ hai, về tăng trưởng, phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
Có lẽ điểm phân định rõ nét kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở mối tương quan giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với việc giải quyết các vấn đề xã hội vì sự phát triển của con người. Vấn đề này, theo tôi, phát triển kinh tế đúng hướng phải gắn rất chặt với phát triển văn hóa và tiến bộ, công bằng xã hội, đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, coi trọng phát triển nguồn lực con người; gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn khó tránh khỏi sự chênh lệch về xã hội và phân hóa thu nhập giữa các giai tầng xã hội và giữa các vùng khác nhau... Vấn đề đặt ra là sự phân hóa đến mức nào thì chấp nhận được và vẫn còn là một động lực cho sự phát triển, vượt quá "ngưỡng" đó sẽ trở thành phân cực xã hội, phân hóa giai cấp đưa xã hội tới trạng thái xung đột, là nguồn gốc của sự mất ổn định, kìm hãm sự phát triển, thậm chí đưa sự nghiệp đến tiêu vong? Trả lời đúng đắn câu hỏi này vẫn đang là một vấn đề lý luận - thực tiễn nóng hổi ở nước ta và với nhiều nước đang phát triển trên thế giới. Chúng ta cần chỉ ra sự khác biệt khá rõ về vấn đề này giữa nước ta hiện nay và các nước đang phát triển theo con đường tự phát tư bản chủ nghĩa mặc dù có không ít nước có thu nhập quốc dân đầu người cao hơn nước ta nhiều. Tôi nghĩ, vấn đề này cần được Hội đồng Lý luận Trung ương nghiên cứu sâu.
Thứ ba, về mối tương quan giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; phát triển kinh tế và ổn định chính trị
Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, chúng ta tập trung cao độ vào đổi mới chính sách kinh tế, đồng thời cũng từng bước đổi mới hệ thống chính trị là chủ trương rất đúng đắn. Nay đã đến lúc phải đẩy mạnh đổi mới đồng bộ hơn, làm cho hệ thống chính trị của chúng ta có tác động mạnh mẽ hơn tới sự phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị. Có người lập luận rằng, khi kinh tế phát triển cao, tự nó sẽ giải quyết được vấn đề xã hội, nhờ vậy, ổn định chính trị được tăng cường và giữ vững. Nhận thức như vậy có đúng không?. Có những nước kinh tế phát triển rất cao, nhưng vấn đề xã hội lại trở nên bức xúc, chính trị lại mất ổn định hơn bao giờ hết, kể cả các nước xã hội chủ nghĩa trước đây như Liên Xô và ở Đông Âu. Vì vậy, vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển kinh tế, chúng ta phải hết sức quan tâm đến vấn đề xã hội. Phát triển kinh tế để giải quyết vấn đề xã hội và việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững. Hơn nữa, cũng cần nói rằng, sự ổn định chính trị không có nghĩa mọi mặt của đời sống chính trị cứ mãi như thế. Để ổn định chính trị, hệ thống chính trị cũng phải không ngừng đổi mới. Nếu không, đó sẽ là sự ổn định trong trì trệ, trở thành lực cản của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Để thể chế chính trị của chúng ta ổn định trong quá trình phát triển, việc phát triển kinh tế - xã hội phải được gắn chặt với an ninh - quốc phòng. Đây thực chất là mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, hệ thống chính trị, bảo vệ kinh tế, văn hóa, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ quan điểm về chiến tranh nhân dân, hậu phương trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao; tiếp tục làm sáng rõ quan điểm chiến lược mới về bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
Để phát triển kinh tế, ổn định chính trị, cũng phải tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, biến ngoại lực thành nội lực cho sự phát triển đất nước. Về mặt lý luận, cần làm rõ quan điểm của Việt Nam là tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng hợp tác với các nước; lấy việc bảo đảm lợi ích quốc gia là nguyên tắc cao nhất của hội nhập và hợp tác quốc tế. Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, độc lập và phát triển. Để nâng cao hiệu quả hội nhập và hợp tác quốc tế, việc xây dựng một hệ thống chính trị vững mạnh, một nền kinh tế độc lập tự chủ có ý nghĩa quyết định.
Thứ tư, về Đảng lãnh đạo Nhà nước và vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Đây là một trong những vấn đề lớn mà các đồng chí đã nghiên cứu, tổng kết. Trong chế độ ta, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, mọi quyền lực đều ở nơi dân. Để bảo đảm cho quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và bảo vệ bản chất chính trị của Nhà nước, phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước vẫn là một vấn đề lý luận và thực tiễn cần được đi sâu hơn để làm sao việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng có tác động tích cực tới việc phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò và hiệu lực của Nhà nước, nâng cao quyền làm chủ của nhân dân. Đảng lãnh đạo thông qua Nhà nước và hệ thống chính trị. Hội đồng đã chú ý nghiên cứu vấn đề này. Những kết quả mà các đồng chí đã đạt được trong quá trình nghiên cứu, tổng kết về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, về cơ bản tôi tán thành. Nhưng trong thực tế, tình trạng một số cơ quan đảng vẫn giải quyết một số vấn đề thuộc chức năng, thẩm quyền của cơ quan nhà nước; cũng có tình hình một số đồng chí lãnh đạo các cấp chính quyền, cơ quan nhà nước còn thụ động, thậm chí ỷ lại, dựa dẫm dưới hình thức "xin ý kiến" của cơ quan đảng ngay cả trong việc giải quyết những vấn đề thuộc chức trách, thẩm quyền của mình hoặc ngược lại. Làm thế nào để khắc phục được tình trạng này, để sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ngày một tăng lên nhưng hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước cũng ngày một hiệu quả hơn, quyền lực của nhân dân được tăng cường hơn? đó vẫn là một vấn đề lý luận - thực tiễn bức xúc mà các cơ quan lý luận, các nhà chỉ đạo thực tiễn phải quan tâm giải quyết.
Nghiên cứu vấn đề trên không thể tách rời với việc nghiên cứu luận cứ khoa học về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước - Nhân dân để mối quan hệ đó thực sự được vận hành trong cuộc sống; về nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; về vị trí tối thượng của luật pháp trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội; về quan hệ trách nhiệm pháp lý qua lại giữa Nhà nước và công dân trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân; về Quốc hội thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp và thực hiện quyền giám sát tối cao; về nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa; về nền tư pháp trong sạch, độc lập, việc chủ động thực hiện chức trách đúng hiến pháp, pháp luật, của tòa án là biểu hiện trung tâm của công lý, công bằng;... Đây là những vấn đề lớn mà dưới góc độ nghiên cứu lý luận, chúng ta cần phải sớm có lời giải đáp.
Chế độ ta là chế độ nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ thể duy nhất và tối cao của mọi quyền lực. Các cơ quan nhà nước tự nó không có quyền nào khác ngoài quyền lực do nhân dân ủy quyền. Trong vấn đề này, một vấn đề rất khó, rất quan trọng về lý luận và thực tiễn mà giới lý luận nước nhà phải giải đáp, là cần làm thế nào để hình thành, hoàn thiện cho được cơ chế sao cho không xảy ra tình trạng nhân dân ủy quyền cho Nhà nước rồi nhân dân lại mất quyền. Nếu để xảy ra tình trạng nhân dân mất quyền thì cán bộ nhà nước sẽ trở thành "ông quan cách mạng"; hành chính ở một số nơi trở thành "hành dân là chính" như một vài báo chí đã nêu. Đây phải chăng là nguồn gốc sâu xa nhất của tình trạng quan liêu trong bộ máy nhà nước?
Để góp phần khắc phục tình trạng quan liêu của Nhà nước, phải hoàn thiện các cơ chế, quy chế để nhân dân thực hiện quyền tham gia quyết định trong toàn bộ chu trình ra đời, tồn tại và hoạt động của Nhà nước; cần mang lại giá trị pháp lý cho những quy định đó.
Nhân dân lập ra nhà nước thông qua cơ chế phổ thông đầu phiếu và bỏ phiếu kín; mọi hoạt động của nhà nước phải đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân; nhân dân có quyền bày tỏ tín nhiệm hay bất tín nhiệm với những bộ phận, những cá nhân giữ cương vị nhất định trong hệ thống tổ chức nhà nước... Trong chuỗi vấn đề này, có lẽ chúng ta phải hoàn thiện hơn nữa thiết chế bầu cử bắt đầu ngay từ khâu ứng cử, đề cử, giới thiệu nhân sự cho các danh sách bầu cử ở tất cả các cấp, ở tất cả các khâu để lựa chọn được đúng những người có phẩm chất đạo đức, có năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; cần nâng cao vai trò tranh cử trong thực chất.
Cơ chế bảo đảm để nhân dân thực hiện trên thực tế vị trí chủ thể quyền lực nhà nước hiện nay được thực hiện dưới hai hình thức là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện (thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp). Cơ chế dân chủ trực tiếp được thực hiện thông qua nhân dân trực tiếp bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân và gần đây là thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Các cơ chế này đang từng bước được hoàn thiện. Ngoài ra, dân chủ của nhân dân còn được thực hiện qua hình thúc tự quản của nhân dân. Hoàn thiện phương thức dân chủ tự quản là một vấn đề có ý nghĩa lớn đối với chúng ta bởi vì phương thức này kết hợp được sức mạnh của luật pháp và bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc, của đạo đức xã hội.
Hiện nay, chúng ta chưa có cơ chế giám sát của nhân dân đối với chính quyền, nên nhân dân cũng không biết giám sát chính quyền như thế nào, bằng cách nào? Đây là một trong những vấn đề mà chúng ta cần nghiên cứu để bảo đảm cho sự giám sát của nhân dân có hiệu lực, hiệu quả.
Tôi được biết vừa qua Đảng đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trình bày đề án về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát đảng viên, cán bộ, công chức ở khu dân cư, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Đây là một trong những đề xuất quan trọng, thể hiện một khía cạnh giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và chính quyền nhà nước. Cũng phải tạo nên nhiều kênh giám sát khác mới có thể bảo đảm được sự giám sát của nhân dân đối với chính quyền nhà nước.
Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong tình hình này, Nhà nước phải luôn chú trọng kết hợp thực hiện tốt chức năng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải luôn gắn bó chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh, chức năng đối nội, đối ngoại, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và chính sách; trong khi nhấn mạnh chức năng giai cấp của nhà nước, chúng ta cũng cần thấy rằng việc thực hiện có hiệu quả chức năng công quyền là điều kiện thực hiện có hiệu quả chức năng giai cấp. Cũng cần lưu ý thêm rằng, chúng ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện một đảng cầm quyền. Tổ chức Nhà nước pháp quyền hiểu theo thiết chế dân chủ tư sản đòi hỏi phân lập các quyền lập pháp, tư pháp và hành pháp. Để giải quyết xung đột giữa 3 nhánh quyền lực này có Tòa án Hiến pháp. Còn trong thiết chế Nhà nước của mình, chúng ta không chủ trương phân lập mà là phân công, phối hợp. Vai trò điều hòa, phối hợp là một trong những nội dung lãnh đạo của Đảng? Cùng với việc bảo đảm và nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, chúng ta phải dựa vào lực lượng của nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, có hệ thống pháp luật vững chắc. Phải tổ chức thật tốt các cơ quan nhà nước, phải xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất cách mạng, đạo đức trong sạch, năng lực chuyên môn giỏi, có ý thức phục vụ nhân dân cao.
Để phát huy vai trò là cơ quan tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những vấn đề lý luận nhằm cung cấp cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng cũng như việc định hướng các chương trình, đề tài cấp nhà nước về lý luận chính trị phục vụ trực tiếp cho công tác lãnh đạo của Đảng, Hội đồng Lý luận Trung ương cần quy tụ, khai thác và phát huy mạnh mẽ hơn nữa tiềm lực nghiên cứu khoa học của tất cả các cơ quan lý luận, các học viện, viện, trường đại học, các cán bộ khoa học và tăng cường trao đổi khoa học với các nước. Mặt khác, phải bám sát thực tiễn cuộc sống, qua đó công tác nghiên cứu sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thực tiễn, cần đặt việc tăng cường thâm nhập thực tiễn, tổng kết thực tiễn là một điều kiện tiên quyết. Việc Hội đồng làm tốt chức năng là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới mang lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý giá trong vấn đề này. Trong các năm tới, tôi mong Hội đồng tiếp tục phát huy tốt hơn nữa việc nghiên cứu lý luận gắn với thực tiễn đất nước để có nhiều đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.
Muốn nghiên cứu có kết quả, điều quan trọng là chúng ta phải nắm bắt thật nhanh nhạy tình hình trong nước và tình hình thế giới. Dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa, mọi sự vật và hiện tượng đang diễn biến mau lẹ, những người làm công tác nghiên cứu lý luận phải bám sát cuộc sống để phản ánh đúng cuộc sống và có những kiến nghị kịp thời với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Chúng ta phải đưa lý luận vào cuộc sống và lấy cuộc sống để kiểm nghiệm lý luận.
Để tìm ra chân lý, việc bám sát thực tiễn, lấy thực tiễn là cơ sở và dùng thực tiễn để kiểm tra kết quả nghiên cứu là những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng. Song, dựa trên tiền đề là thực tiễn, chân lý còn được phát hiện ra qua tranh luận, thảo luận. Trong thảo luận, cần hết sức dân chủ, hết sức tránh quy chụp, áp đặt. Để mở rộng dân chủ trong nghiên cứu, thảo luận lý luận, Hội đồng cần có đóng góp tích cực vào việc hoàn thiện Dự thảo Quy chế Dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn mà Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Viện Khoa học Xã hội Việt Nam chủ trì soạn thảo. Trong khi nghiên cứu, cũng cần phải phân ra cái ngắn hạn, cái trung hạn, cái dài hạn, nhằm vừa đáp ứng được những vấn đề trước mắt, vừa đáp ứng được những vấn đề lâu dài.
Điều cuối cùng, tôi muốn đề cập là ngoài việc tổ chức nghiên cứu tham mưu cho Đảng, hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, các cơ quan, các nhà nghiên cứu lý luận chính trị, tư tưởng cần đi đầu trong sinh hoạt chính trị tư tưởng của Đảng, qua đó vừa củng cố vững chắc niềm tin vào lý tưởng cách mạng của Đảng, của nhân dân ta, vừa đấu tranh kiên quyết và sắc bén đập tan mọi luận điệu xuyên tạc, "tâm lý chiến" mà các thế lực thù địch đang hằng ngày, hằng giờ gieo rắc nhằm chống lại Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Nhân dịp đầu năm mới, chúc Hội đồng Lý luận Trung ương tiếp tục phát huy vai trò trách nhiệm của mình, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Chúc tất cả các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc, thành đạt, cống hiến nhiều hơn nữa cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc ta.
Sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước pháp quyền  (18/01/2007)
Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền ở nước ta  (18/01/2007)
Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh  (18/01/2007)
Đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, kỷ luật trong đảng ở giai đoạn cách mạng mới  (18/01/2007)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển