Nâng cao hiệu quả đầu tư công cho nông nghiệp và nông thôn ở Hà Nội

Nguyễn Thị Hồng Hà, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quôc hội Hà Nội Nguyễn Minh Phong, Báo Nhân dân
22:20, ngày 20-08-2012

TCCSĐT - Khu vực ngoại thành Hà Nội có 18 huyện với 401 xã, chiếm tới 88% tổng diện tích, 63% tổng dân số Thủ đô là địa bàn nông thôn… Đầu tư công khu vực này được ưu tiên cho các dự án về hạ tầng kinh tế - xã hội, an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo và các dự án phục vụ nhu cầu phát triển sản xuất chăn nuôi theo quy trình công nghệ sạch, an toàn; Xóa phòng học tạm, phòng học bán kiên cố xuống cấp…

Toàn cảnh đầu tư công cho nông nghiệp và nông thôn giai đoạn 2006-2011 trên địa bàn Hà Nội

Bên cạnh nguồn vốn ngân sách là chính, bước đầu Thành phố đã huy động những nguồn vốn đầu tư từ chương trình xã hội hóa đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tuy nhiên, nguồn vốn này chiếm tỷ lệ rất thấp.

Về thủy lợi, việc xây dựng các trạm bơm và kiên cố hóa kênh mương triển khai được 1.474 trạm bơm bình quân 3,68 trạm/xã; kênh mương được kiên cố hóa tăng từ 1.826 lên 1.933 km (chỉ đáp ứng 23,65%) tiến độ chậm và xa yêu cầu đặt ra. Phát triển nghề và làng nghề: toàn Thành phố có 228 làng nghề ở 126 xã (tăng thêm 13 xã). Số người được đào tạo nghề tăng từ 5.199 lên 53.684 lượt người, nhưng chưa có nhiều nghề mới với hàm lượng công nghệ cao, chỉ tập trung phát triển tạo thêm việc làm cho các nghề đã có hoặc đào tạo lại. Hệ thống đường giao thông nông thôn, được tập trung đầu tư kiên cố nhưng chủ yếu trong nội khu dân cư, chưa chú trọng đầu tư giao thông nội đồng. Hệ thống điện chưa ổn định, hệ thống hạ tầng điện chưa được cải tạo, nâng cấp và đầu tư không đều. Cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn, cơ sở hạ tầng dịch vụ kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, đa số xã có cơ sở chuyên chế biến nông sản nhưng còn nhỏ lẻ, chưa tập trung. Còn khoảng 30% xã chưa lập chợ và 70% xã chưa có quỹ tín dụng nhân dân nên người nông dân còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay cũng như lưu thông hàng hóa nông nghiệp, chưa có cơ chế quản lý thống nhất đối với hạ tầng thương mại sau đầu tư. Trung bình mỗi xã có 1 hợp tác xã nông nghiệp, tuy nhiên hiệu quả hoạt động không đều thiếu định hướng hoạt động cụ thể. Về mạng lưới thông tin, văn hóa và truyền thông, 85% xã thiếu nhà văn hóa; hệ thống loa truyền thanh và tủ sách pháp luật, 81,8% xã có điểm bưu điện văn hóa. Hệ thống trường học, dạy nghề, trung tâm học tập cộng đồng, được quan tâm đầu tư nhưng còn thiếu tính hệ thống, liên thông, nhiều nghề đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu của  nông dân. Tuy ở 100% số xã có trạm y tế nhưng chưa hoạt động thường xuyên. Số người tham gia mua bảo hiểm y tế tự nguyện ở khu vực nông thôn còn thấp. Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, được quan tâm nhưng mới chỉ có chưa tới 12,5% xã có công trình cấp nước sinh hoạt tập trung; 258 xã có xây dựng hệ thống thoát nước thải chung, đạt 64,3%; 382 xã có tổ chức hoặc thuê thu gom rác thải, đạt 95,3%. Nhiều vùng nông thôn chưa có hệ thống nước sạch theo tiêu chuẩn, các dự án nước sạch triển khai chậm. Năm 2011, giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản ước đạt 188,4 triệu đồng/ha canh tác. Diện tích gieo cấy lúa ổn định khoảng 100 nghìn ha, năng suất lúa bình quân đạt 60 tạ/ha. Tổng sản lượng xấp xỉ 1,2 triệu tấn/năm, trong đó lúa chất lượng cao chiếm 1,5% diện tích. Diện tích trồng rau, đậu các loại đạt gần 30.000 ha, sản lượng đạt 580.000 tấn (diện tích rau an toàn chiếm 17,2%). Đàn bò là 185.000 con, trong đó đàn bò sữa đạt 9.900 con, đàn lợn 1,62 triệu con, đàn gia cầm 17,28 triệu con. Diện tích nuôi trồng thủy sản khoảng 20.600 ha, sản lượng đạt 61.000 tấn.

Về an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo: số người được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí tăng từ 338.541 lên 436.279 người, đạt 11,42% dân số nông thôn. Số lượt người được đào tạo nghề tăng từ 5.199 lên 53.684 lượt người. Số hộ được vay vốn dự án tăng từ 107.497 lên 134.845 hộ, đạt 13,57%. Đến hết năm 2011, toàn Thành phố  có 795 hợp tác xã nông nghiệp ở 100% số xã. Tại 393 xã đã có cán bộ khuyến nông, lâm, ngư (đạt 98,0%); 395 xã có cán bộ thú y, đạt 98,5%. Hội đồng nhân dân Thành phố đã có Nghị quyết số 03/2010/NQ – HĐND, ngày 21-4-2010 về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020, định hướng 2030. Theo đó Ủy ban nhân dân Thành phố đã phê duyệt đề án Xây dựng nông thôn mới thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 – 2020, định hướng 2030, phê duyệt kế hoạch xây dựng nông thôn mới giai đoạn 1 ở 401 xã với tổng mức vốn dự kiến là 32.000 tỉ đồng. Trong 2 năm 2010 và 2011, đã có 19 đề án xã điểm đang được triển khai thực hiện, trong đó xã Thụy Hương (là một trong 11 xã điểm của toàn quốc) đã cơ bản hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới.

Thành phố cũng đã quan tâm dành ngân sách đầu tư nâng cao năng lực phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, thực hiện đối phó với biến đổi khí hậu. Từ năm 2005 đến năm 2010, các tuyến hữu sông Đà, tả/hữu sông Hồng và tả/hữu sông Đuống, sông Đáy, sông Tích đã được đầu tư gia cố bờ chống sạt lở được gần 80 km kè hộ chân đê, trong đó có gần 40 km kè hộ chân lát mái. Trên bề mặt 18 tuyến đê chính với tổng chiều dài 464,745 km, đã được kiên cố hóa bảo đảm phục vụ cho công tác phòng, chống lụt bão kết hợp giao thông nông thôn.

Những hạn chế và nguyên nhân trong đầu tư công cho nông nghiệp và nông thôn ở Hà Nội

Hạn chế

Theo quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hiện Thành phố đang tập trung triển khai các quy hoạch chi tiết theo các ngành, lĩnh vực. Riêng quy hoạch phát triển nông nghiệp đang hoàn thiện để trình Hội đồng nhân dân thông qua và phê duyệt nên việc triển khai các dự án đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong những năm qua chậm và chưa rõ nét. Hệ thống thủy lợi, nhất là kênh mương và giao thông nội đồng phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của mục tiêu phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn. Các dự án khác trong lĩnh vực nông nghiệp thực hiện chậm, chưa hình thành được mô hình sản xuất rau an toàn, chăn nuôi một cách ổn định, bền vững; thiếu các dự án ứng  dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Công tác đầu tư các công trình hạ tầng trong xây dựng nông thôn mới còn nhiều khó khăn vướng mắc, trong đó các tiêu chí xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội còn quá chú trọng đầu tư vào các hạng mục hạ tầng kỹ thuật, dẫn đến tổng nhu cầu lớn không đủ nguồn lực đáp ứng. Một số lĩnh vực quan trọng, phức tạp về kỹ thuật và xã hội như xử lý ô nhiễm môi trường các làng nghề, xử lý rác thải, cấp nước sinh hoạt, cấp nước sạch cho ruộng đồng... có rất ít dự án được triển khai. Chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp vẫn còn thiếu cụ thể, chưa đồng bộ, chưa xây dựng được cơ chế ưu đãi để thu hút các doanh nghiệp tham gia vào các dự án sản xuất nông nghiệp, hạ tầng nông thôn. Công tác xã hội hóa kêu gọi các nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn nhiều hạn chế.

Về tổng thể, đầu tư công cho phát triển nông nghiệp và nông thôn tuy có sự cải thiện cả về quy mô và hiệu quả nhưng cơ chế, chính sách còn chậm được xem xét, bổ sung, điều chỉnh và tháo gỡ kịp thời, thiếu tính đột phá; khả năng tham mưu, cụ thể hóa chủ trương, chính sách và trách nhiệm quản lý của một số đơn vị còn yếu, chưa có tính chủ động, tích cực trong việc tổ chức thực hiện, còn nhiều bức xúc về sự chênh lệch cung - cầu và khả năng bố trí vốn đầu tư công đáp ứng thực tế; vẫn còn hiện tượng làm thất thoát ngân sách công, trong khi công tác thanh, kiểm tra và xử lý vi phạm trong công tác đầu tư chưa nghiêm; chưa có cơ chế hiệu quả thu hút được doanh nghiệp và nông dân đầu tư vào nông nghiệp - nông thôn; công tác an ninh trật tự ở nông thôn diễn biến hết sức phức tạp, tiềm ẩn yếu tố gây mất ổn định (nhất là trong công tác xử lý đền bù giải phóng mặt bằng, ô nhiễm môi trường...). Đầu tư công vừa chưa phát huy được vai trò động lực chủ đạo, vừa chưa thực sự phát huy tính định hướng, thu hút được nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước, nhất là đầu tư từ doanh nghiệp và trong dân cho phát triển nông nghiệp - nông thôn. Quy mô đầu tư công cho nông nghiệp - nông thôn còn thấp, mới đáp ứng được khoảng 20% vốn so với nhu cầu; cơ cấu đầu tư chưa cân đối và chưa hướng vào trọng tâm phù hợp. Mức đạt 3% dòng đầu tư công cho sản xuất nông nghiệp như hiện nay là quá thấp chưa công bằng với các địa bàn nội thành. Các nguồn vốn chưa đa dạng và còn thiếu một số nguồn, kênh và hình thức đầu tư công quan trọng mang tính thị trường, như đầu tư qua tín dụng ngân hàng, qua hệ thống quỹ tài chính và qua các doanh nghiệp nhà nước… Tình trạng không có việc làm ở nông thôn còn nhiều. Công tác xóa đói giảm nghèo chưa bền vững, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận dân cư nông thôn còn khó khăn, sự phân hóa giàu nghèo tiếp tục gia tăng...

Một số nguyên nhân chủ yếu:

Một là, sau hợp nhất, thành phố Hà Nội có diện tích lớn và dân số đông, kinh tế phát triển không đồng đều. Địa bàn nông thôn rộng lớn, mật độ dân số cao, nhu cầu đầu tư rất nhiều, trong khi đó khả năng cân đối ngân sách Nhà nước còn thấp, xã hội hóa đầu tư trên địa bàn thấp, huy động sức dân hạn chế.

Hai là, việc phân cấp quản lý đầu tư công chưa cụ thể, chưa rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các chủ thể trong quản lý đầu tư công, cũng như chưa phân định rõ đối tượng đầu tư công, nhất là trên địa bàn huyện, dẫn đến hiện tượng đầu tư tràn lan, trong khi nguồn vốn hạn hẹp và hiệu quả của đầu tư không cao. Cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư còn chưa đầy đủ, đồng bộ; một số văn bản chỉ đạo chưa sát với thực tế, chưa được cụ thể hóa kịp thời thành các văn bản pháp lý có tính hệ thống (đặc biệt là thiếu luật về đầu tư công); đồng thời còn thiếu các văn bản hướng dẫn liên quan, có chính sách bộc lộ những bất hợp lý nhưng chưa được sửa đổi kịp thời, ảnh hưởng đến triển khai nghiệp vụ của địa phương, gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện và hạn chế trong hiệu quả đầu tư công; chưa có nhiều chính sách, cơ chế ưu đãi thu hút nguồn vốn xã hội đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và các vùng nông thôn.

Ba là, đầu tư vào sản xuất nông nghiệp có tỷ suất lợi nhuận thấp, thời gian thu hồi vốn chậm lại nhiều rủi ro nên chưa khuyến khích được các nhà đầu tư.   
Bốn là, tác động của tình hình kinh tế thế giới và trong nước như lạm phát cao, suy thoái kinh tế, nợ công... ảnh hưởng đến đầu tư nói chung và đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói riêng.

Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công cho nông nghiệp và nông thôn Hà Nội trong thời gian tới

Để nâng cao hiệu quả đầu tư công cho nông nghiệp và nông thôn Hà Nội trong thời gian tới cần quan tâm thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó chú ý những giải pháp sau đây:

Thứ nhất, đề nghị Quốc hội sớm ban hành luật về đầu tư công; rà soát các luật liên quan đến lĩnh vực đầu tư và ngân sách như: Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu... để điều chỉnh theo hướng tạo chính sách đồng bộ, thống nhất, tránh chồng chéo. Trong đó, sửa đổi Luật Xây dựng (2003) về các nội dung phân cấp, ủy quyền trong đầu tư xây dựng: phân cấp phải phù hợp với khả năng quản lý, cân đối ngân sách của địa phương, ủy quyền phải phù hợp với điều kiện năng lực của các chủ đầu tư. Nếu Luật Thủ đô được ban hành tới đây sẽ là động lực pháp lý tốt để thành phố Hà Nội chủ động khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh, thúc đẩy Thủ đô Hà Nội phát triển trong đó có khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Thứ hai, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành Trung ương nghiên cứu, hoàn thiện đồng bộ, thống nhất các chính sách đầu tư, hỗ trợ và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo hướng đủ mạnh, đủ hấp dẫn và có tính đặc thù cho một số địa phương. Trong quá trình xây dựng phải nghiên cứu, đánh giá kỹ hiện trạng, lấy ý kiến phản biện xã hội một cách rộng rãi nhằm nâng cao tính khả thi. Các bộ, ngành cần có những hướng dẫn chi tiết về công tác xây dựng nông thôn mới, điều chỉnh tiêu chí xây dựng nông thôn mới theo hướng không quy định cứng các chỉ tiêu mà cho phép các địa phương nghiên cứu thực hiện các tiêu chí phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương để tăng tính linh hoạt, tích cực, chủ động của các địa phương trong đầu tư. Thay đổi phương pháp xây dựng, cách thức tổ chức quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng điều chỉnh và xác định rõ các mục tiêu, đối tượng, tiêu chí và cách thức xác định đối tượng hưởng lợi, các hoạt động chủ yếu, phương  thức quản lý, cơ quan chủ trì và phối hợp thực hiện, cơ chế theo dõi, giám sát và đánh giá, định kỳ đánh giá và cách thức điều chỉnh, khi xét thấy cần thiết; sớm nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 61/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04-6-2010 về chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo hướng tăng mức ưu đãi để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp; đề nghị nâng thời hạn và hạn mức vay cho các hộ nghèo vay vốn để mua giống gia súc, gia cầm hoặc phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Do hạn mức vay thấp không đủ để mua giống, thời gian đáo hạn nhanh nên chưa đủ chu kỳ để tái sản xuất, thanh toán nợ và lãi. Chính phủ cũng cần tăng vốn đầu tư cho Chương trình mục tiêu quốc gia về dạy nghề, nâng cao năng lực các cơ sở dạy nghề công lập tại địa phương, đầu tư trọng tâm vào chương trình dạy nghề, phù hợp với yêu cầu của địa phương cho các trung tâm dạy nghề cấp huyện.

Thứ ba, Ủy ban nhân dân Thành phố cần tiếp tục chỉ đạo các sở, ngành, đoàn thể, ủy ban nhân dân các huyện tăng cường công tác tuyên truyền về chủ trương đầu tư phát triển cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân, đặc biệt là người nông dân để cùng với Nhà nước thực hiện tốt chủ trương này; chỉ đạo thực hiện tốt công tác lập quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp thực tế của từng vùng. Xác định rõ trọng tâm và cơ cấu đầu tư phấn đấu tăng mức đầu tư công trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp lên 8%.

Tiếp tục thúc đẩy xã hội hóa đầu tư vào nông nghiệp trên địa bàn Thành phố; nghiên cứu, sửa đổi bổ sung các quy định về: “Chương trình phát triển chăn  nuôi, chế biến thực phẩm an toàn bảo đảm vệ sinh môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sớm nghiên cứu tổng kết, đánh giá vai trò của mô hình hợp tác xã sản xuất, dịch vụ nông nghiệp, có cơ chế chính sách hỗ trợ thích hợp cho loại hình này; tăng cường thực hiện công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra nhằm nâng cao chất lượng của các chương trình, dự án, đặc biệt chú trọng tiến độ và chất lượng của các công trình xây dựng cơ bản; chỉ đạo thực hiện việc giám sát cộng đồng theo Quyết định số 80/2005/QĐ-TTG ngày 18-4-2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng nhằm nâng cao hiệu quả trong quản lý nhà nước về đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn…/.