Tái cơ cấu các quan hệ sở hữu để định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường

Nguyễn Minh Khải PGS, TS, Phó Giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
17:20, ngày 01-08-2012
TCCS - Trong công cuộc đổi mới kinh tế hiện nay ở nước ta, việc giải quyết vấn đề tái cơ cấu các quan hệ sở hữu, trong đó có quan hệ công hữu, các hình thức của chế độ công hữu, cũng như quan hệ của các vấn đề đó đối với tiến trình định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường đang là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.

1- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ cơ bản trong hệ thống các quan hệ kinh tế, quyết định bản chất của quan hệ sản xuất và đến lượt nó, quan hệ sản xuất chủ đạo lại quy định bản chất của nền sản xuất - xã hội nhất định. Xét trong mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, thì quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng là điều kiện và phương tiện kinh tế tác động đến lực lượng sản xuất, mà suy cho cùng, là đến quá trình tái sản xuất xã hội. Đồng thời, việc thiết lập và xây dựng quan hệ sản xuất chủ đạo không chỉ là phương tiện, mà còn là mục tiêu cần đạt tới để một phương thức sản xuất này thật sự chiến thắng một phương thức sản xuất khác. Chính vì vậy, tái cấu trúc các quan hệ sở hữu của nền kinh tế không chỉ nhằm tạo điều kiện, phương tiện mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất mà còn nhằm tới mục tiêu xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp.

Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (chế độ sở hữu xã hội) là chế độ mà quyền chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về xã hội dưới nhiều hình thức do nhân dân lao động làm chủ (cũng cần lưu ý rằng quan hệ sở hữu chỉ được gọi là chế độ sở hữu một khi nó được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, nghĩa là nó chỉ tồn tại khi còn tồn tại nhà nước).

Tuy nhiên, khi bàn đến chế độ công hữu với tư cách vừa là phương tiện kinh tế, vừa là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, theo chúng tôi, cần bàn thêm một số khía cạnh, như quy mô của chế độ công hữu (quan hệ về lượng giữa công hữu và tư hữu), trình độ của chế độ công hữu (quan hệ về chất giữa công hữu và tư hữu), đặc biệt cần quan tâm đến các hình thức của chế độ công hữu trong tiến trình định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế nước ta. Trên cơ sở những nhận thức mới về hình thức của chế độ công hữu, cần phải tái cơ cấu các hình thức công hữu cho phù hợp với trình độ và quy mô công hữu, không nên chỉ “đóng khung” ở hai hình thức cơ bản là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, mà cần có những hình thức công hữu quá độ, những hình thức công hữu mà ở đó Nhà nước và tập thể đóng vai trò chi phối. Có như vậy, chúng ta mới triệt để khắc phục được những sai lầm trước đây mà trong những năm đổi mới vừa qua chúng ta đã khắc phục được phần nào.

 Lâu nay khi nói đến thành công cũng như những tồn tại của quá trình đổi mới kinh tế chúng ta thường nhấn mạnh đến đổi mới cơ chế và chính sách kinh tế. Điều đó đúng, song chưa đủ, bởi chúng ta chưa thật sự đánh giá hết vai trò của việc xử lý các quan hệ sở hữu, thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh tế. Việc xử lý các quan hệ sở hữu trong những năm qua của Đảng và Nhà nước ta đã có đóng góp rất to lớn vào thành tựu tăng trưởng kinh tế. Theo lô-gic đó, những tồn tại và cản trở lớn nhất của chúng ta hiện nay lại đang nằm chính ở sự lúng túng trong xử lý các quan hệ sở hữu, trong đó có quan hệ công hữu. Hay nói rộng ra, chúng ta vẫn còn lúng túng trong xử lý các vấn đề thuộc về quan hệ sản xuất. Cũng với lô-gic đó, cần phải thấy những tồn tại, yếu kém trong chính sách kinh tế không chỉ có ở chính sách tài chính, tiền tệ, đầu tư, thị trường, quản lý ngân sách... mà còn ở chính sách về quan hệ sản xuất, cũng như lộ trình xây dựng quan hệ sản xuất mới tiến bộ phù hợp ở nước ta.

Để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đưa đổi mới đi vào chiều sâu, tạo môi trường thuận lợi cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi chúng ta phải tái cơ cấu các quan hệ sở hữu, hình thành một hệ thống quan hệ sở hữu tiến bộ phù hợp (trong đó có công hữu) với yêu cầu khách quan của nền sản xuất xã hội. Cùng với tiến trình xã hội hóa lực lượng sản xuất do công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại, con đường cơ bản của sự phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự hình thành đa dạng các hình thức sở hữu hỗn hợp, đan kết lẫn nhau giữa hai nhân tố công hữu và tư hữu bằng những hình thức kinh tế trung gian quá độ. Trong đó, nhân tố công hữu sẽ ngày càng tăng lên thông qua một quá trình tích lũy về lượng bằng những định hướng của Nhà nước phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và theo đó yếu tố công hữu sẽ ngày càng làm tốt hơn vai trò chi phối và chủ đạo trong nền kinh tế. Các hình thức kinh tế quá độ để chuyển tư hữu thành công hữu là rất đa dạng. Thực tiễn cuộc sống và sự phát triển tư duy lý luận sẽ ngày càng bổ sung thêm những hình thức mới. Cho đến nay chúng ta có thể khẳng định, để chuyển tư hữu thành công hữu không chỉ bằng con đường tịch thu, quốc hữu hóa hay bằng chủ nghĩa tư bản nhà nước, mà còn có thể bằng phát triển rộng rãi các hình thức của kinh tế hợp tác, các công ty cổ phần và các tổ chức kinh tế của những người lao động làm chủ, liên doanh, liên kết.

C. Mác cho rằng, bản chất của sở hữu toàn dân là sở hữu xã hội. Trong điều kiện toàn dân, với tư cách là người chủ xã hội, chưa thể chi phối một cách trực tiếp những tư liệu sản xuất do mình làm chủ, thì có thể thông qua đại diện của mình để nắm và vận hành những tư liệu sản xuất đó, đại diện đó chính là nhà nước đại biểu cho quyền lợi của toàn dân. Vì thế, chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất chuyển thành chế độ sở hữu nhà nước. Với lý do đó, có thể khẳng định sở hữu nhà nước chỉ là một hình thức của sở hữu xã hội (toàn dân), là hình thức sở hữu công cộng đại diện.

Đồng thời, sở hữu tập thể cũng là một hình thức sở hữu xã hội ở mức thấp và cũng là sở hữu đại diện. Theo lô-gic này, giống như để thực hiện quyền dân chủ, lúc đầu là dân chủ đại diện và sau đó là tăng dần dân chủ trực tiếp và yếu tố trực tiếp ngày càng tăng lên, để xây dựng chế độ công hữu chúng ta phải chú ý đến hình thức sở hữu công cộng trực tiếp không thông qua một cơ chế ủy quyền và đại diện, như việc góp tiền của, công sức, công nghệ, sáng kiến kỹ thuật, bản quyền thiết kế để cùng làm một con đường, cây cầu, ngôi nhà... Bản thân sở hữu công cộng trực tiếp cũng phải kết hợp hài hòa được ba lợi ích: xã hội, tập thể và cá nhân.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ định hướng phát triển của nước ta là: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ  vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển” (1)
Có thể khẳng định rằng, chế độ công hữu sẽ không thể phát huy tính tích cực trong sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất nếu không từng bước xác lập quyền làm chủ trực tiếp của những người lao động đối với tư liệu sản xuất, cũng như trong phân phối và quản lý sản phẩm. Vì vậy, cái đích mà việc xác lập chế độ công hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay phải hướng đến là mang lại quyền làm chủ trực tiếp và thực sự của người lao động trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất với đầy đủ các quyền năng của nó. Theo quy luật vận động của lịch sử, dưới tác động của các quy luật kinh tế khách quan, hình thức công hữu trực tiếp sẽ ngày càng lớn dần và chiếm ưu thế tuyệt đối, hình thức công hữu đại diện gắn với sứ mệnh của nhà nước sẽ ngày càng thu hẹp lại. Điều đó cũng có nghĩa là đến chủ nghĩa cộng sản, khi nhà nước không còn tồn tại, thì lúc đó cũng không còn hình thức công hữu đại diện nữa (điều này hoàn toàn đúng với tư tưởng của các nhà kinh điển).

 2 - Trên cơ sở những lập luận trên, theo chúng tôi, trong quá trình tái cơ cấu các quan hệ sở hữu, xây dựng quan hệ sản xuất mới tiến bộ phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong bối cảnh hiện nay cần khẳng định một số vấn đề sau:

Một là, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải lấy chế độ công hữu làm mục tiêu và phương tiện để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, song không phải bằng con đường tự phát hoặc làm bằng bất cứ giá nào, mà phải tìm tòi sáng tạo các hình thức công hữu đa dạng với mức độ tiến hóa khác nhau, có khả năng kích thích quá trình tích tụ, tập trung sản xuất và xã hội hóa lao động - sử dụng các hình thức sở hữu hỗn hợp như là sự bổ sung hợp quy luật cho sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Đặt mối quan hệ tái cơ cấu các quan hệ sở hữu (đặc biệt là các hình thức của chế độ công hữu) trong mối quan hệ biện chứng của sự trưởng thành, hoàn thiện và phát triển các quan hệ quản lý và quan hệ phân phối trong môi trường, kết quả của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.

Hai là, chúng ta chấp nhận kinh tế tư nhân là một trong những động lực phát triển kinh tế, phát huy tính tích cực của nó, song không phải không cần có định hướng, không thể để nó giữ vai trò chủ đạo dẫn tới sự ra đời kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Quản lý và ngăn chặn các hiện tượng kinh tế tư nhân làm giàu bằng cách “tầm gửi” vào kinh tế nhà nước, rút ruột vốn, công nghệ, năng lực quản lý, nhân lực từ khu vực kinh tế nhà nước; cạnh tranh không lành mạnh với kinh tế nhà nước.

Ba là, tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước bằng cách tái cơ cấu đầu tư công, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý, đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tuyển chọn, sử dụng, bố trí, sàng lọc nhân sự; cơ chế quản lý tài chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, nắm giữ những ngành, lĩnh vực kinh tế then chốt mũi nhọn nhằm làm tốt vai trò chủ đạo; làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết tốt những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô; tạo nền tảng vật chất cho xã hội mới. Và đó cũng chính là cách để định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

Để làm tốt vai trò này, cần xác lập cơ chế thực hiện quyền sở hữu nhà nước bao gồm quyền sở hữu, quyền định đoạt, quyền sử dụng và quyền hưởng thụ kết quả. Hiện nay ở nước ta một phần không nhỏ tài sản nhà nước không rõ ai là người làm chủ thực sự: Nhà nước, toàn dân, một nhóm các giám đốc doanh nghiệp nhà nước hay thủ trưởng các cơ quan nhà nước? Vì thế nếu không có cơ chế hữu hiệu để thực hiện quyền sở hữu nhà nước thì đây chính là yếu tố triệt tiêu hiệu quả của kinh tế nhà nước, làm yếu vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.

Bốn là, xác lập quyền sở hữu trực tiếp của người lao động thông qua cơ chế tạo cho người lao động được làm chủ tư liệu sản xuất dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau để tăng dần sở hữu công cộng trực tiếp. Theo đó, các cơ quan hoạch định chiến lược cần đẩy mạnh nghiên cứu tổng kết thực tiễn để hoàn thiện và khẳng định về mặt lý luận, xác định mô hình, cách thức xây dựng loại hình sở hữu này.

Năm là, cuộc đấu tranh giữa hai xu hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản và xu hướng tự giác sử dụng những thành tựu của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội là một trong những nội dung của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở nước ta hiện nay. Do đó, tự giác, chủ động sử dụng những thành tựu, mặt tích cực hay những yếu tố hợp lý và hạn chế những mặt tiêu cực, những yếu tố bất hợp lý của chủ nghĩa tư bản, của kinh tế thị trường, xây dựng và củng cố cơ sở kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa chính là yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước./.

------------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 73, 74