Giảm chi phí từ sản xuất ra thị trường

Lý Thái Phương
15:16, ngày 17-06-2011
TCCSĐT - Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5-2011, Chính phủ nhận định “trong tháng 5, lạm phát đã hạ nhiệt và dự báo tiếp tục giảm tốc trong những tháng tới. Tuy nhiên, việc kiềm chế lạm phát, chặn đà tăng giá tiêu dùng dự báo còn gặp nhiều khó khăn”.

Đúng là giá bán nhiều mặt hàng trên thị trường những ngày này cho dù đã có phần chững lại song vẫn đứng ở mức khá cao, gần như đã tạo ra một mặt bằng giá mới. Tuy nhiên, mặt bằng giá mới sẽ được chấp nhận khi yếu tố tạo nên  nên mặt bằng này được chứng minh là hợp lý. Thế nhưng, quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa của chúng ta từ nơi kết thúc sản xuất sản phẩm đến khi sản phẩm ra đến thị trường có rất nhiều công đoạn và trong các công đoạn này đã nảy sinh những chi phí bất hợp lý. Những chi phí này nhiều khi cao đến vô lý và trở thành yếu tố quan trọng hình thành mặt bằng giá cao hơn thực tế.

Theo tính toán của các nhà kinh tế, giá sản phẩm hàng hóa từ khi xuất xưởng đến tay người tiêu dùng đang phải “cõng” quá nhiều khoản chi phí, mà nếu giải được phép tính quản lý kinh tế ở khu vực này thì những chi phí bất hợp lý và lãng phí ấy sẽ giảm rất mạnh. Lúc đó, đương nhiên giá thành sản xuất và giá bán sản phẩm hàng hóa sẽ giảm theo. Đáng tiếc (mà nói đúng hơn là đáng lo ngại) là thực tế lại không phải như vậy. Một dẫn chứng điển hình nhưng lại là diễn ra hàng ngày, hàng giờ một cách thông thường nhất trong nền kinh tế của chúng ta, đó là chuyện con tôm tại Thái Bình cho dù vừa lên lưới là chuyển ngay về Hà Nội thì nhanh nhất cũng phải rong ruổi 3 tiếng đồng hồ trên đường, chưa kể các thủ tục giao nhận. Giao thông chậm, thủ tục giao nhận hàng lâu thì chi phí bảo quản tôm sẽ phải cao hơn và đương nhiên giá bán cuối cùng sẽ tăng thêm trong khi chất lượng tôm sẽ giảm. Ví dụ này là điển hình nhưng cũng là rất bình thường hàng, đây chính là hệ quả của hạn chế về cơ sở hạ tầng lưu thông hàng hóa.

Ở khía cạnh khác, nguyên nhân quan trọng khiến chi phí đội lên là do chủ quan trực tiếp từ quá trình giao dịch mua bán trên thị trường. Mô hình liên kết 4 nhà (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước) rồi có thể là 5 nhà (thêm nhà ngân hàng) là một mô hình hay được Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ thực hiện. Song, trong thực tế do thiếu sự liên kết và hợp tác, do thiếu minh bạch trong khi triển khai áp dụng nên nhiều nơi thất bại hoặc hiệu quả kém.

Có rất nhiều chuyên gia đã lấy ví dụ từ hiện tượng thành công của Liên hiệp hợp tác xã mua bán Coop Mart của Thành phố Hồ Chí Minh trong việc liên kết giữa nhà doanh nghiệp với nông dân - người sản xuất, để làm đối trọng tích cực và hiệu quả khi phân tích tình trạng giao dịch thiếu sòng phẳng, minh bạch vẫn xảy ra trên thương trường khiến người nông dân thiệt thòi. Coop Mart có cơ chế rất hiệu quả trong việc liên kết chặt chẽ, mật thiết và thiện chí với người sản xuất để từ đó có nguồn cung hàng ổn định và bảo đảm quyền lợi của người nông dân cũng như sự chia sẻ hợp lý giữa hai bên. Kết quả nghiên cứu của Trường Đại học An Giang về mô hình nuôi cá ba sa đưa ra những số liệu mà nhìn vào đó sẽ thấy nếu mối liên kết này không được thắt chặt thì tổng thể sản xuất kinh doanh sẽ nhanh chóng bị phá vỡ. Theo nghiên cứu này, trong tổng lợi nhuận mà con cá ba sa mang lại, người nông dân chỉ được hưởng chưa đầy 28%, trong khi doanh nghiệp chế biến xuất khẩu được gần 70%, còn 2% thuộc về thương lái mua gom.

Như vậy, người sản xuất thì bị ép, nhiều khi phải bán sản phẩm với giá thấp còn người tiêu dùng luôn luôn bị thiệt hại vì phải mua giá cao trong khi nhà kinh doanh hưởng mức lợi nhuận quá lớn. Và cũng chính vì quan hệ lỏng lẻo không chặt chẽ nên không ít lần khi giá cá tăng lên, nguồn cung thiếu, người nông dân lại lợi dụng thời cơ này để găm hàng đòi tăng giá, bắt bí doanh nghiệp. Cuối cùng thì khi con cá ra được thị trường thì giá đã quá cao và trong nhiều trường hợp thiết lập mặt bằng giá mới ở mức cao, ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng, đến hiệu quả kinh doanh và đến chính nền kinh tế trong đó có cả doanh nghiệp và người nông dân. Nếu giá cá cao sẽ tạo dây chuyền giá thức ăn chăn nuôi, giá cá giống, giá thuốc thú y sẽ cao v.v..

Một ví dụ khác tương tự là giá đường ăn xuất xưởng tại các nhà máy chỉ có 17 nghìn đồng/kg trong khi người tiêu dùng phải mua với mức 24 nghìn đồng, thậm chí cao hơn nữa. Sự chênh lệch giá như thế có nhiều nguyên nhân, trong đó có chi phí lưu thông quá cao (kể cả chi phí hợp lý và chưa hợp lý) và tâm lý ăn xổi - chỉ nhìn thấy mối lợi trước mắt của người tham gia khâu lưu thông hàng hóa từ mua buôn để bán lẻ mà không thấy được sự quan trọng của chữ “tín”, của việc tạo được uy tín bền vững trong cộng đồng người tiêu dùng. Chính vì thế, trên thị trường luôn thấy xảy ra các vụ chụp giật, hay tranh thủ đầu cơ, ghìm hàng, nâng giá trái phép cùng các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Vấn đề là cần phải tổ chức một cách hiệu quả hành trình của hàng hóa trong quá trình lưu thông từ cơ sở sản xuất đến tay người tiêu dùng. Hệ thống phân phối bán lẻ của nước ta khá dày ở mọi địa phương trong nước. Theo số liệu của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, cả nước đang có trên một nghìn hợp tác xã thương mại, khoảng 9.000 hợp tác xã nông nghiệp. Vậy mà tình trạng đầu ra của nông sản vẫn thường xuyên bấp bênh. Có khi hàng nông sản sản xuất ra rồi chịu nằm đọng tại nơi sản xuất, không ra được thị trường, không đến được với người tiêuu dùng, hoặc đến với giá khiến người sản xuất không thể tái sản xuất. Thực tế cho thấy cần phải giảm bớt khâu trung gian để đưa thẳng được hàng hóa từ nơi sản xuất ra thị trường, để giảm chi phí không đáng có, để bớt thời gian chờ đợi vô lý khiến hàng chưa kịp đến tay người mua đã giảm chất lượng. Tuy nhiên, chỉ một số ít địa phương làm tốt được điều đó như Hải Dương, Thanh Hóa, An Giang, Cần Thơ. Hay như mô hình trồng hoa, trồng rau Vĩnh Tuy, Lĩnh Nam của Hà Nội được tổ chức thống nhất từ sản xuất đến tiêu thụ đang mang lại hiệu quả tốt về kinh tế và xã hội. Cung đường từ sản xuất ra thị trường được rút lại ngắn nhất, thời gian nhanh nhất.

Thế nhưng tại khu vực nông thôn, yêu cầu này mới chỉ thể hiện một cách tự phát tại các chợ lẻ, khi người sản xuất nhỏ lẻ mang hàng hóa ra bán trực tiếp tại chợ. Nhưng cách đó chỉ phù hợp với sản xuất manh mún. Các hợp tác xã nông nghiệp ở khu vực nông thôn cũng chủ yếu phục vụ đầu vào cho sản xuất như vật tư nông nghiệp, phân bón, thuốc trừ sâu... chứ ít tham gia vào khâu tiêu thụ kể cả vận chuyển, sơ chế, tiêu thụ. Với nền kinh tế hàng hóa, phát triển theo thị trường và đặc biệt có định hướng xã hội chủ nghĩa, cần một cách thức làm ăn lớn có tổng chỉ huy điều hành một cách cụ thể. Hệ thống siêu thị tại các thành phố và đô thị hiện nay đang góp phần thực hiện cách làm ăn này.

Tại Hà Nội, hệ thống siêu thị đang đáp ứng được khoảng 20% tổng nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của người dân. Một số siêu thị hoạt động đạt hiệu quả cao do có mối quan hệ chính thức, ổn định với nguồn cung ứng hàng. Trong một số đợt thị trường gặp khó khăn, hàng hóa khan hiếm giá cả bấp bênh nhưng các siêu thị này vẫn cơ bản bảo đảm nhu cầu thiết yếu của người mua với giá hợp lý, cùng chia sẻ.

Nhưng nếu cách làm này thiếu sự liên kết thống nhất trong tổng thể chung thì cũng không duy trì được bền vững. Một đơn vị, một mạng lưới của một siêu thị khó mà xoay sở tốt nếu “đơn thương độc mã” giữa thị trường. Hình ảnh này được so sánh với cách thức bán hàng bình ổn giá hiện nay. Chỉ một tỷ lệ nhỏ hàng được bình ổn giá sẽ lọt thỏm và nhanh chóng mất hút giữa thương trường đầy phức tạp và sôi động với mặt bằng giá cao hơn nhiều so với giá bình ổn. Và như vậy vấn đề liên kết, kết hợp chặt chẽ lại được đặt ra. Dân ta đã đúc kết : “buôn có bạn, bán có phường”. Nhìn vào thực tế, đây thật sự là một kinh nghiệm có tính truyền thống, kế tục từ đời này sang đời khác. Nhìn ra thế giới cũng thấy rằng cách thc làm ăn tương tự thế cũng được tổ chức rất chặt chẽ đến mức tưởng như tự nhiên. Các công ty đa quốc gia, các tập đoàn và mối liên hệ giữa các tập đoàn lớn trên thế giới cũng đều “có bạn, có phường” một cách chặt chẽ.

Sau 5 tháng vừa qua, chỉ số giá tiêu dùng cả nước đã tăng 12,07% và Chính phủ đã phải điều chỉnh tăng mức kiềm chế lạm phát lên 15% cho cả năm nay. Đây là mục tiêu quá khó, bởi từ nay đến cuối năm, trong 7 tháng còn lại chỉ số này chỉ còn được phép tăng chưa đầy 3%. Giá cả các nhóm hàng hóa trong rổ tính chỉ số giá tiêu dùng nếu không giảm hoặc nếu không được kiềm chế mức tăng thì đương nhiên chỉ số giá tiêu dùng sẽ tăng.

Có thể thấy mạng lưới thương mại hiện nay về tổng thể chưa đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu của xã hội ngày càng có yêu cầu cao hơn, kể cả ở khu vực nông thôn và thành thị. Hạ tầng thương mại như giao thông, kho chứa, bảo quản, cửa hàng chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, nhân lực cho thương mại còn hạn chế, cung cách quản lý chưa hiện đại, chưa phát huy được thế mạnh của mỗi khâu trong chuỗi hoạt động từ nơi sản xuất hàng hóa ra đến thị trường. Tất cả các yếu tố này đang tác động trực tiếp và gián tiếp vào giá thành và giá bán sản phẩm khi ra đến thị trường. Những yếu tố tăng hợp lý sẽ được chấp nhận và phải chấp nhận như quy luật nhưng các yếu tố làm tăng giá hàng hóa một cách không đáng có cần phải được chỉ ra cụ thể và xử lý kiên quyết./.