Chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng - Thành tựu, thách thức và hướng đi bền vững
TCCS - Chuyển đổi số (CĐS) đang trở thành một trong những đột phá chiến lược nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới. Chuyển đổi số trong các cơ quan, tổ chức đảng đã đạt được những kết quả bước đầu tích cực, tuy nhiên cũng còn nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi có giải pháp phù hợp, hiệu quả, hướng tới xây dựng Đảng vững mạnh, thích ứng linh hoạt với thời đại số.
Thực tiễn chuyển đổi số trong các cơ quan, tổ chức đảng
Chuyển đổi số là xu thế tất yếu của thời đại, là điều kiện sống còn để các quốc gia thích ứng, phát triển bền vững trong môi trường toàn cầu hóa và cạnh tranh số. Ở Việt Nam, việc ban hành Chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (theo Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 3-6-2020, của Thủ tướng Chính phủ) đã thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta về CĐS, với mục tiêu kép vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số có năng lực toàn cầu. Tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp.
Đảng và Nhà nước ta đã sớm ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Trong đó, CĐS trong công tác đảng đóng vai trò then chốt, tạo nền tảng đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm sự thích ứng linh hoạt và dẫn dắt toàn hệ thống chính trị trong kỷ nguyên số. Ngày 29-11-2024, Ban Bí thư Trung ương Đảng phê duyệt Đề án CĐS trong các cơ quan đảng (Quyết định số 204-QĐ/TW, của Ban Bí thư), nhằm đổi mới, tạo chuyển biến toàn diện, mạnh mẽ, thực chất, nâng cao chất lượng trong phương thức lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, phong cách công tác, lề lối làm việc và nâng cao hiệu quả, giảm thời gian giải quyết công việc của cán bộ, công chức, viên chức các cấp, góp phần quan trọng vào cải cách thủ tục hành chính trong các cơ quan đảng. Đề án đặt ra 6 nhóm mục tiêu cụ thể trong giai đoạn từ 2025 đến 2028, với định hướng bài bản, toàn diện, nghiêm túc, đồng bộ và có lộ trình. Việc gắn từng nhóm mục tiêu với thời gian, chỉ tiêu cụ thể không chỉ giúp theo dõi quá trình, tiến độ mà còn tạo động lực để các cấp ủy hành động, không trì hoãn. Đây là cách tiếp cận hiện đại, thể hiện sự chuyển đổi mạnh mẽ từ tư duy lãnh đạo hành chính sang tư duy quản trị số trong Đảng.
CĐS trong công tác đảng không chỉ là áp dụng công nghệ mới, mà còn là sự đổi mới về tư duy, phương thức hoạt động và cách thức tổ chức công tác của Đảng. Việc ứng dụng công nghệ trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhấn mạnh vai trò CĐS không chỉ trong quản trị nội bộ mà còn trong kết nối xã hội, để nắm bắt tình hình nhân dân, hỗ trợ các hoạt động cứu trợ, an sinh xã hội, phát huy dân chủ, đánh giá sự hài lòng của người dân, tăng cường đồng thuận nhân dân, tăng cường giám sát, phản biện xã hội.
Thực hiện CĐS trong các cơ quan Đảng, thời gian qua, các cơ quan, ban, ngành, địa phương đã tích cực, chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong triển khai nhiệm vụ. CĐS không còn dừng lại ở khẩu hiệu hay chủ trương, mà đã từng bước hiện diện trong mọi mặt công tác của tổ chức đảng, đặc biệt là ở cấp cơ sở, trở thành công cụ hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng. Nhiều nhiệm vụ thường xuyên, như gửi, nhận văn bản điện tử; tổ chức họp, hội nghị trực tuyến; thi tìm hiểu nghị quyết trên nền tảng số; sử dụng chữ ký số; số hóa và lưu trữ tài liệu công vụ đã được triển khai đồng bộ, hiệu quả ở nhiều cấp, địa phương.
Nhiều phần mềm hỗ trợ công tác đảng đã được ứng dụng, như phần mềm quản lý hồ sơ đảng viên, sổ tay đảng viên điện tử; phần mềm đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên, theo dõi công tác xây dựng Đảng, quản lý văn bản, điều hành và các hệ thống đánh giá cán bộ. Việc triển khai đồng bộ các công cụ số này giúp nâng cao hiệu suất công việc, tăng độ chính xác trong xử lý thông tin, góp phần chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ, thúc đẩy tính minh bạch và tạo sự liên thông hiệu quả giữa các cấp, ngành trong hệ thống chính trị. Đặc biệt, các ứng dụng công nghệ số đang từng bước định hình một phong cách làm việc mới hiện đại, khoa học, kỷ luật hơn. Đây chính là tiền đề quan trọng để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng ngày càng sát thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ CĐS.
Nhiệm vụ quản lý tổ chức đảng, đảng viên được từng bước hiện đại hóa trước thực tiễn tổ chức đảng ngày càng mở rộng về quy mô, số lượng đảng viên không ngừng gia tăng và phân bố trên nhiều địa bàn, lĩnh vực công tác. Trong bối cảnh đó, CĐS trong công tác quản lý đảng viên và tổ chức đảng với hệ thống vận hành hiện đại không chỉ là xu hướng tất yếu mà còn là giải pháp chiến lược để nâng cao hiệu lực quản trị của Đảng. Số hóa dữ liệu đảng viên, áp dụng phần mềm quản lý tập trung và xây dựng hệ thống liên thông dữ liệu toàn quốc chính là nền tảng để bảo đảm quản lý chặt chẽ, cập nhật kịp thời và phục vụ hiệu quả công tác xây dựng Đảng trong thời đại số.
Nhiều đảng bộ, chi bộ đang tích cực số hóa dữ liệu đảng viên, áp dụng các phần mềm hỗ trợ tạo ra hệ sinh thái số đồng bộ từ quản lý đến điều hành. Đặc biệt, hạ tầng số được từng bước đầu tư đồng bộ, chữ ký số được ứng dụng rộng rãi, văn bản không mật được xử lý trên môi trường số, góp phần xây dựng hệ thống điều hành thông minh trong đảng bộ. Những bước tiến này không chỉ nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan đảng, mà còn tạo dựng nền tảng dữ liệu quan trọng, phục vụ cho công tác quy hoạch, đánh giá, kiểm tra, giám sát và phát triển đảng viên một cách khoa học, bài bản và hiện đại, phù hợp với yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo trong thời đại CĐS.
Với việc triển khai hàng loạt hoạt động quy mô toàn quốc trên nền tảng số, Đảng đã thể hiện tầm nhìn chiến lược và tư duy tiên phong trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Việc ứng dụng công nghệ số đã giúp truyền tải nhanh chóng, liên tục và công khai các chủ trương, nghị quyết, chính sách quan trọng từ Trung ương đến toàn hệ thống chính trị, tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong phương thức tổ chức và thực hiện. Các hội nghị trực tuyến toàn quốc không chỉ minh chứng cho cách làm hiện đại, đồng bộ, mà còn góp phần tăng cường sự kết nối, thống nhất giữa Trung ương với các cấp ủy, chi bộ và đảng viên. Hình thức này vừa bảo đảm tính tương tác trực tiếp trong học tập, thảo luận, vừa bảo đảm tính đồng bộ và nhất quán trong tiếp nhận thông tin chính trị. Đây không đơn thuần là các buổi học tập nghị quyết, mà là minh chứng rõ nét cho phương thức lãnh đạo sáng tạo, linh hoạt và tiên phong của Đảng trong kỷ nguyên số, nơi công nghệ được xem là lực đẩy quan trọng nhằm thống nhất nhận thức, đồng bộ hành động và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành ở tất cả các cấp.
Ứng dụng CĐS đã tạo nên hiệu ứng tích cực trong việc tham gia phong trào học tập chính trị trên cả nước, gia tăng sự kết nối của các tổ chức đảng, đảng viên, khơi dậy tinh thần chủ động học tập, thảo luận trong toàn Đảng, chuyển đổi nhận thức thành hành động cụ thể. Đảng viên không chỉ tiếp nhận nội dung quan trọng mà còn trực tiếp trải nghiệm một phương thức làm việc mới dựa trên nền tảng số hiện đại, minh bạch và linh hoạt, minh chứng cho việc CĐS không dừng lại ở tầm vĩ mô, mà đã thấm sâu tới từng tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên.
CĐS trong cơ quan đảng là một sự chuyển mình chiến lược, quá trình cải tổ sâu sắc phương thức lãnh đạo sang quản trị hiện đại, dựa trên dữ liệu, công nghệ và kết nối số. Đây là sự chuyển biến quan trọng trong tư duy lãnh đạo, là bước đột phá quan trọng trong áp dụng công nghệ mới, làm chủ không gian số. Xác định CĐS là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp bách, vừa lâu dài, nhiều cơ quan, tổ chức đảng đã tiên phong thực hiện với nhiều giải pháp cụ thể, thiết thực. Đây là bước đi tất yếu nhằm thích ứng với bối cảnh mới, cũng là minh chứng cho tầm nhìn chiến lược của Đảng, làm nền tảng cho phát triển bền vững.
Thách thức từ chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng
Trong bối cảnh thế giới chuyển đổi nhanh chóng sang nền kinh tế số, việc Đảng đi trước, dẫn đầu trong CĐS chính là bảo đảm cho sự phát triển toàn diện của quốc gia. CĐS trong Đảng có mối liên hệ trực tiếp với mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đây không chỉ là bài toán về đổi mới công nghệ, mà là vấn đề đổi mới từ trong tư duy đến cách thức tổ chức bộ máy. Công cuộc CĐS trong công tác đảng đang được triển khai từ trung ương đến địa phương, quyết tâm xóa bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang kìm hãm sự phát triển của đất nước. Việc CĐS không chỉ là xu hướng tất yếu mà còn là nhiệm vụ cấp bách để nâng cao hiệu quả hoạt động của Đảng.
Tuy nhiên, tốc độ và sự bứt phá về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS quốc gia còn chậm; quy mô, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia còn khoảng cách xa so với nhóm các nước phát triển; nhận thức của nhiều cấp, nhiều ngành, cán bộ, công chức và nhân dân về CĐS chưa đầy đủ và sâu sắc; nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa có bước đột phá, chưa làm chủ được công nghệ chiến lược, công nghệ cốt lõi; thể chế pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đáp ứng yêu cầu; nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu; hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng số còn nhiều hạn chế; an ninh, an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu còn nhiều thách thức.
Bên cạnh đó là rào cản về nhận thức. Thực tế cho thấy, ở nhiều nơi, việc hiểu đúng bản chất CĐS còn hạn chế, chưa nhận thức rõ ràng về việc đây là một yêu cầu chính trị gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, quản trị của Đảng trong thời kỳ mới. Bên cạnh đó, tư duy ngại thay đổi, tâm lý e dè vẫn còn tồn tại, nhất là tại cấp cơ sở. Điều này dẫn đến tình trạng triển khai CĐS mang tính hình thức, đối phó, thiếu quyết tâm và sự vào cuộc đồng bộ từ hệ thống chính trị. Do đó, để CĐS thực sự đi vào chiều sâu và phát huy hiệu quả, điều quan trọng trước tiên là phải làm chuyển đổi nhận thức, xác định đây không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật mà là nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng, cần sự tiên phong, gương mẫu của từng cán bộ, đảng viên.
Hạn chế về năng lực số của đội ngũ cán bộ, đảng viên: Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ vẫn thiếu kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản, chưa thành thạo trong thao tác với các nền tảng số, hệ thống quản lý dữ liệu hay ứng dụng phục vụ công việc hằng ngày. Đây là yếu tố trực tiếp làm chậm tiến độ CĐS trong các cơ quan đảng, đặc biệt là ở những cán bộ lớn tuổi, cán bộ cấp cơ sở. Nhiều cán bộ, đảng viên hiện nay thiếu kiến thức nền tảng về an toàn thông tin, bảo mật dữ liệu, trong khi đây lại là những yêu cầu tối quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng trong môi trường số. Việc bồi dưỡng cán bộ chưa theo kịp sự phát triển của công nghệ, dẫn đến khoảng cách ngày càng lớn giữa yêu cầu nhiệm vụ và năng lực thực tiễn.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ: Một trong những rào cản hiện hữu làm chậm tiến trình CĐS trong các cơ quan, tổ chức đảng chính là tình trạng hạ tầng kỹ thuật thiếu đồng bộ, không đồng đều giữa các địa phương, cấp, ngành. Ở nhiều nơi, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, cơ quan cấp xã, thiết bị công nghệ vẫn thiếu thốn, đường truyền yếu, hệ thống máy tính lạc hậu, gây khó khăn cho việc triển khai các nền tảng số và ứng dụng điều hành, quản lý công việc.
Thiếu quy chuẩn chung trong triển khai CĐS: Tình trạng thiếu nhất quán trong định hướng triển khai giữa các địa phương, đơn vị đang tạo ra khoảng cách và sự phân mảnh trong CĐS. Rào cản mang tính nền tảng, có ảnh hưởng lâu dài đến hiệu quả CĐS trong các cơ quan đảng chính là việc chưa ban hành được bộ quy chuẩn chung về tiêu chí, lộ trình và chuẩn dữ liệu số áp dụng. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới năng lực điều hành, giám sát, mà còn làm lãng phí nguồn lực đầu tư, kéo dài thời gian hoàn thành các mục tiêu đã đề ra. Việc sớm xây dựng khung quy chuẩn thống nhất là điều kiện tiên quyết để bảo đảm CĐS trong Đảng diễn ra hiệu quả, toàn diện, đồng bộ và có khả năng mở rộng, tích hợp lâu dài.
Nguy cơ mất an toàn thông tin, bảo mật dữ liệu Đảng: CĐS trong công tác đảng tiềm ẩn không ít rủi ro, đặc biệt là nguy cơ mất an toàn thông tin và rò rỉ dữ liệu nội bộ. Đây là vấn đề đặc biệt nhạy cảm, bởi các thông tin nội bộ, dữ liệu về đảng viên, tài liệu mật có vai trò sống còn đối với hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Hiện nay, công tác bảo mật tại một số cơ quan đảng chưa theo kịp tốc độ CĐS, cả về hạ tầng kỹ thuật lẫn nhân lực chuyên môn. Nhiều đơn vị vẫn thiếu đội ngũ chuyên gia an ninh mạng, chưa có kế hoạch ứng phó toàn diện trước các cuộc tấn công mạng ngày càng tinh vi, phức tạp. Đảm bảo an toàn thông tin không chỉ là yêu cầu kỹ thuật, mà còn là yếu tố chính trị then chốt, bảo vệ sự ổn định và niềm tin của tổ chức đảng trong thời đại số.
Những rào cản nêu trên không chỉ là những thách thức về mặt kỹ thuật hay công nghệ, mà còn là thử thách về tư duy, tổ chức và năng lực lãnh đạo chính trị trong toàn hệ thống. Nếu không kịp thời tháo gỡ, công cuộc CĐS trong công tác Đảng rất dễ rơi vào hình thức, không đi vào thực chất, không mang lại hiệu quả bền vững. Trong bối cảnh đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần được xác định là tác nhân trung tâm, vai trò quyết định trong việc thúc đẩy CĐS thành công. Chính sự chủ động, tiên phong, đổi mới tư duy và gương mẫu trong hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ là yếu tố then chốt, bảo đảm cho CĐS trong công tác đảng không chỉ là mục tiêu, mà trở thành hiện thực hiệu quả, thiết thực và bền vững.
Giải pháp nâng cao hiệu quả chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng
Thực tiễn CĐS trong các cơ quan, tổ chức đảng thời gian qua đã ghi nhận nhiều kết quả tích cực, từng bước khẳng định vai trò và tính cấp thiết của CĐS trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành, xây dựng Đảng hiện đại, gần dân, sát thực tiễn. Tuy nhiên, quá trình triển khai cũng cho thấy không ít khó khăn, hạn chế, như hạ tầng số chưa đồng bộ giữa các cấp; trình độ, nhận thức và kỹ năng số của cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu, phần mềm ứng dụng chưa thống nhất, việc đổi mới phương thức làm việc trên môi trường số ở nhiều nơi còn chậm, mang tính hình thức. Những tồn tại này phần nào làm giảm hiệu quả và tốc độ thực thi các chủ trương lớn của Đảng về CĐS. Trong bối cảnh đó, yêu cầu đặt ra là cần có những giải pháp đồng bộ, cụ thể và khả thi nhằm thúc đẩy mạnh mẽ quá trình CĐS trong toàn hệ thống tổ chức đảng, phát huy vai trò nêu gương, tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên. Đây không chỉ là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, mà còn là bước đi chiến lược để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng tổ chức đảng hiện đại, hiệu quả, sát dân, phục vụ nhân dân trong thời kỳ CĐS. Một số giải pháp được đề xuất, như sau:
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về CĐS, trong đó người đứng đầu cấp ủy cần thể hiện rõ vai trò nêu gương, dẫn dắt trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện, mỗi đảng viên phát huy vai trò là chủ thể tích cực của tiến trình CĐS.
CĐS đã trở thành yêu cầu chính trị quan trọng, gắn với quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo, quản trị và điều hành của Đảng trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, thực tế tại nhiều địa phương, cơ quan cho thấy nhận thức về CĐS còn hạn chế. Không ít cán bộ, đảng viên vẫn xem đây là nhiệm vụ kỹ thuật của bộ phận chuyên môn, chưa hiểu rõ đây là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị và của từng đảng viên. Để CĐS thực sự đi vào chiều sâu và mang lại hiệu quả, điều kiện tiên quyết là phải nâng cao nhận thức toàn diện trong toàn Đảng và toàn xã hội, trong đó người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị phải thể hiện rõ vai trò nêu gương, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và thúc đẩy quá trình CĐS, với tinh thần “nói đi đôi với làm”, “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”. Mỗi đảng viên cần phát huy vai trò là chủ thể thực hiện, đồng thời là một hạt nhân tuyên truyền, có trách nhiệm lan tỏa nhận thức, hướng dẫn và hỗ trợ các thành viên khác trong tổ chức và cộng đồng cùng tham gia CĐS. Việc quán triệt, tuyên truyền về vai trò, mục tiêu và ý nghĩa của CĐS phải được thực hiện thường xuyên, linh hoạt và sáng tạo, gắn liền với thực tiễn công tác, từ đó tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong nhận thức và hành động của toàn hệ thống chính trị.
Hai là, nâng cao năng lực số cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; phát triển nguồn nhân lực chuyên trách về công nghệ thông tin.
Thực tế tại nhiều địa phương cho thấy, dù đã nỗ lực tổ chức tập huấn, đào tạo, song vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên gặp khó khăn trong việc tiếp cận, sử dụng thành thạo các nền tảng số và phần mềm quản lý chuyên môn. Đây là một trong những điểm nghẽn làm chậm tiến trình CĐS trong hệ thống chính trị. Cần xác định rõ nâng cao năng lực số không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là giải pháp mang tính chiến lược, lâu dài. Việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng số cho cán bộ, đảng viên phải được triển khai bài bản, liên tục, phù hợp với trình độ và điều kiện thực tế của từng địa phương, đơn vị. Nội dung đào tạo cần tập trung vào kỹ năng thao tác với các phần mềm quản lý, sử dụng nền tảng họp trực tuyến, ký số, lưu trữ tài liệu điện tử, bảo mật thông tin, phối hợp xử lý công việc trên môi trường số và những nội dung cơ bản khác.
Cần chú ý tới nguy cơ mất an toàn thông tin và rò rỉ dữ liệu nội bộ trong quá trình CĐS. Thực tế cho thấy, công tác bảo mật tại một số cơ quan đảng vẫn chưa theo kịp tốc độ số hóa cả về hạ tầng kỹ thuật lẫn nhân lực chuyên môn. Nhiều nơi còn thiếu đội ngũ chuyên gia an ninh mạng, chưa xây dựng được quy trình ứng phó trước các cuộc tấn công mạng ngày càng tinh vi và có chủ đích. Bảo đảm an toàn thông tin không chỉ là yêu cầu kỹ thuật đơn thuần, mà còn là vấn đề chính trị then chốt, bảo vệ uy tín, niềm tin và sự ổn định của tổ chức đảng trong thời đại số.
Việc nâng cao năng lực số phải song hành với phát triển nguồn nhân lực chuyên trách về công nghệ thông tin trong hệ thống Đảng. Từng cán bộ, đảng viên cần được đào tạo bài bản về kỹ năng số, quy trình xử lý công việc trên nền tảng số, đồng thời được bồi dưỡng kiến thức về bảo mật, sử dụng công cụ số an toàn. CĐS chỉ thực sự mang lại hiệu quả khi con người, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ năng lực để làm chủ công nghệ và vận hành hệ thống một cách hiệu quả. Chính vì vậy cần quan tâm xây dựng đội ngũ chuyên trách công nghệ thông tin trong các cơ quan, tổ chức đảng, bảo đảm đủ năng lực hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn giải pháp công nghệ và kịp thời xử lý các tình huống phát sinh, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình CĐS, xây dựng tổ chức đảng ngày càng hiện đại, chuyên nghiệp.
Ba là, nâng cấp và phát triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật cùng các nền tảng CĐS.
Một trong những trở ngại lớn cản trở tiến trình CĐS trong các cơ quan, tổ chức đảng hiện nay chính là sự thiếu đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật giữa các địa phương, ngành và cấp tổ chức. Tại nhiều khu vực, nhất là vùng sâu, vùng xa hoặc cơ sở đảng cấp xã, điều kiện kỹ thuật còn hạn chế, thiết bị lạc hậu, đường truyền mạng kém ổn định, thiếu phần mềm ứng dụng dẫn tới việc triển khai các nền tảng số thiếu liền mạch, gây khó khăn trong quản lý, điều hành và xử lý công việc trên môi trường số.
Để tạo bước đột phá, cần ưu tiên đầu tư nâng cấp toàn diện hệ thống hạ tầng thông tin, từ bảo đảm đường truyền tốc độ cao, an toàn, bảo mật đến hiện đại hóa phần mềm điều hành, quản lý. Đồng thời, cần chuyển dịch dần sang mô hình điện toán đám mây và ứng dụng công nghệ mới, như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn để hỗ trợ phân tích, dự báo, ra quyết định hiệu quả hơn. Xây dựng nền tảng dữ liệu dùng chung giữa các cấp ủy và cơ quan chuyên môn, trên cơ sở số hóa đồng bộ và chia sẻ dữ liệu liên thông sẽ là chìa khóa để hình thành một hệ sinh thái số thống nhất trong toàn hệ thống.
Khi hạ tầng số được phát triển đồng bộ, không chỉ các cơ quan đảng mà cả Chính phủ sẽ có điều kiện thuận lợi hơn trong chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát. Dữ liệu từ cơ sở được cập nhật nhanh chóng, chính xác và minh bạch sẽ giúp Trung ương nắm bắt tình hình, đánh giá thực tiễn sát thực và kịp thời phát hiện, tháo gỡ những điểm nghẽn trong triển khai nghị quyết. Đây chính là tiền đề để hình thành phương thức quản trị hiện đại, giúp nâng cao năng lực phản ứng chính sách, tối ưu nguồn lực và củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào năng lực lãnh đạo, điều hành của Đảng trong thời kỳ mới.
Bốn là, tăng cường tương tác đa chiều giữa tổ chức đảng, đảng viên và nhân dân trên nền tảng số để lan tỏa trách nhiệm, củng cố niềm tin và nâng cao hiệu quả thực hiện CĐS.
CĐS không chỉ là công cụ hiện đại hóa bộ máy và phương thức điều hành, mà còn là cơ hội để Đảng mở rộng kênh kết nối, tương tác với nhân dân một cách linh hoạt, nhanh chóng và hiệu quả hơn. Thông qua các nền tảng số, tổ chức đảng các cấp có thể thiết lập hệ thống phản hồi giữa Đảng với dân, giúp việc lắng nghe và tiếp nhận ý kiến của quần chúng trở nên trực tiếp, thường xuyên và có chiều sâu hơn. Điều này thể hiện rõ tinh thần “dân làm gốc”, khẳng định gắn bó mật thiết với nhân dân là nguyên tắc sống còn, là nền tảng vững chắc để Đảng giữ vững vai trò lãnh đạo và không ngừng phát triển.
Trong bối cảnh công dân số ngày càng chủ động, hiểu biết và kỳ vọng cao hơn đối với bộ máy lãnh đạo, việc các cơ quan, tổ chức đảng tích cực mở rộng các nền tảng tương tác, như cổng thông tin điện tử, ứng dụng phản ánh hiện trường, hệ thống khảo sát ý kiến, đánh giá sự hài lòng, góp ý xây dựng Đảng... không chỉ là sự thích ứng với thời đại số, mà còn là biểu hiện sinh động của phương thức lãnh đạo đổi mới, dân chủ và công khai. Qua đó, đảng viên và tổ chức đảng không chỉ đóng vai trò là người lãnh đạo, quản lý mà còn là người đồng hành, người lắng nghe và phục vụ.
Tương tác đa chiều trên môi trường số cũng góp phần lan tỏa trách nhiệm xã hội của mỗi đảng viên trong việc tuyên truyền, hướng dẫn và hỗ trợ người dân cùng tham gia vào tiến trình CĐS quốc gia. Mỗi đảng viên không chỉ là người thụ hưởng thành quả số hóa mà còn là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, từ đó củng cố niềm tin, sự đồng thuận và tạo nên sức mạnh tổng hợp để đưa công cuộc CĐS trong Đảng thực sự đi vào chiều sâu, phục vụ thiết thực cho sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước.
Năm là, xây dựng quy chuẩn chung trong triển khai CĐS, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng.
Một trong những rào cản lớn trong quá trình CĐS tại các cơ quan, tổ chức đảng hiện nay là tình trạng thiếu đồng bộ, nhất quán giữa các địa phương, đơn vị. Việc chưa có một bộ quy chuẩn thống nhất về tiêu chí, lộ trình và chuẩn dữ liệu số đã dẫn đến những khác biệt trong triển khai, gây khó khăn cho việc liên thông dữ liệu, giám sát, đánh giá và tổng hợp, nguy cơ lãng phí nguồn lực, đầu tư chồng chéo và hiệu quả thấp. Việc sớm xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện đồng bộ sẽ tạo nền tảng cho sự tích hợp, mở rộng và hiện đại hóa công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong thời kỳ mới.
CĐS cần đi đôi với đổi mới cách thức tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng. Các hình thức truyền thống như hội nghị, văn bản, báo in vẫn giữ vai trò quan trọng, nhưng cần được bổ sung bởi các phương tiện số hiện đại, như video trực tuyến, đồ họa thông tin, chương trình phát thanh số, các nền tảng học tập điện tử, phương tiện truyền thông xã hội chính thống nhằm đa dạng hóa phương thức tiếp cận, tăng sức hấp dẫn và hiệu quả truyền tải thông tin. Điều này đặc biệt cần thiết trong bối cảnh công nghệ số đang thay đổi hành vi tiếp nhận thông tin của cán bộ, đảng viên và quần chúng, nhất là giới trẻ. Khi tư tưởng, đường lối của Đảng được lan tỏa qua nhiều kênh, tiếp cận nhanh chóng và dễ hiểu hơn, sẽ góp phần nâng cao nhận thức chính trị, tăng cường sự đồng thuận và củng cố niềm tin trong toàn xã hội.
CĐS không chỉ là công cụ hỗ trợ quản lý, mà còn là phương thức để Đảng gần dân hơn, hiện đại hóa bộ máy lãnh đạo, nâng cao năng lực điều hành và tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Tuy nhiên, trên hành trình ấy vẫn còn không ít khó khăn, thách thức, nếu không được khắc phục kịp thời có thể kéo lùi tốc độ và chất lượng của CĐS. Để vượt qua những thách thức này rất cần sự thống nhất từ nhận thức đến hành động của từng cán bộ, đảng viên, trong đó, mỗi đảng viên là chủ thể trung tâm quyết định sự thành công của tiến trình CĐS./.
Tổng Bí thư Tô Lâm: Phải lấy việc tháo gỡ "điểm nghẽn" thể chế làm nhiệm vụ đột phá hàng đầu  (15/10/2025)
Ngành xuất bản trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay  (30/09/2025)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm