Kế thừa và phát huy tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng

Đại tá, ThS. Nguyễn Đức Thắng Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự - Bộ Quốc phòng
10:39, ngày 25-07-2013
TCCSĐT - Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm đặc biệt đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng.

Người thường xuyên nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải ghi nhớ công ơn to lớn của các đồng chí thương binh, liệt sĩ và những người có công đã vì nền độc lập, tự do của dân tộc, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân mà hy sinh tính mạng hoặc bỏ lại một phần xương máu của mình nơi chiến trường. Người căn dặn “bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”. Đó cũng là phù hợp với truyền thống nhân văn, đạo lý của dân tộc Việt Nam “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”.

 

Tính nhân văn trong tư tưởng của Người đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng

 

Suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân, là tấm gương sáng ngời về lòng nhân ái, lòng thương yêu bao la, sâu sắc đối với con người. Tính nhân văn trong tư tưởng của Người đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng được thể hiện qua nhiều bài nói, bài viết và bằng hành động thực tiễn của Người, nổi bật trên một số nội dung cơ bản sau:

 

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt, tình thương yêu bao la đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng.

 

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ đã ban hành “Thông cáo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi” như một chính sách của Nhà nước, đồng thời thể hiện tấm lòng biết ơn, nhân ái bao la của Người. Thông cáo nêu rõ:  “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền Tự do, Độc lập và Thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó, và tôi nhận con các liệt sĩ làm con nuôi của tôi”(1).

 

Đất nước giành được độc lập chưa được bao lâu thì thực dân Pháp bộc lộ dã tâm quyết cướp nước ta một lần nữa. Toàn thể nhân dân Việt Nam lại phải bước vào một cuộc chiến đấu mới đầy cam go, thử thách, quyết liệt để giữ vững giang sơn gấm vóc của Tổ quốc. Nền kinh tế đất nước vừa qua khỏi sự kiệt quệ, lại phải đương đầu với những khó khăn, thách thức mới và lớn, vì thế đời sống của các chiến sĩ ngoài mặt trận cũng gặp vô vàn khó khăn, thiếu thốn.

 

Trên cương vị người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất thấu hiểu những khó khăn, hy sinh to lớn của quân và dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống xâm lược. Ngày 10-3-1946, Người gửi thư cho đồng bào Nam Bộ, trong thư Bác viết: “Tôi kính cẩn cúi chào các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng”. Tiếp sau đó, trong thư gửi đồng bào cả nước, Người viết những dòng đầy xúc động: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sỹ và đồng bào Việt Nam vì Tổ quốc mà hy sinh anh dũng”. Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sỹ bị nạn” (sau đổi tên là “Hội giúp binh sỹ bị thương”) được thành lập ở Thuận Hóa (Bình - Trị - Thiên), ở thành phố Hà Nội và một số địa phương khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Hội trưởng danh dự của Hội. Chiều ngày 07-11-1946, tại nhà hát thành phố Hà Nội đã tổ chức buổi quyên góp ủng hộ quần áo, giày mũ cho các chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “mùa đông chiến sĩ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự và Người đã cởi chiếc áo rét đang mặc để gửi tặng bộ đội.

 

Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng bổ, chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng đất nước. Số người tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu bị thương, hy sinh ngày càng tăng lên. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng, Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định một số chủ trương, chính sách quan trọng về công tác thương binh, liệt sĩ, nhằm góp phần ổn định đời sống vật chất, tinh thần của các chiến sĩ và gia đình chính sách, tiếp tục động viên sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày 16-2-1947, Người ký Sắc lệnh số 20/SL ban hành chế độ hưu, bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ. Tháng 6-1947, tại một địa điểm thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ Cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Cục Chính trị Quân đội Quốc gia Việt Nam, Nha Thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã tổ chức họp bàn về công tác thương binh, liệt sĩ. Hội nghị nhất trí đề nghị Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy ngày 27 tháng 7 hằng năm làm “Ngày Thương binh toàn quốc”. Chiều ngày 27-7-1947, “Ngày Thương binh toàn quốc” được tổ chức lần đầu tiên bằng cuộc mít-tinh lớn tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ (Thái Nguyên). Tại cuộc mít-tinh này, mọi người đã được nghe thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thư Người nêu rõ: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh... Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”(2).

 

Sau Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954), Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định từ tháng 7 năm 1955, “Ngày Thương binh toàn quốc” được đổi thành “Ngày thương binh, liệt sĩ” và được tổ chức trang trọng hằng năm trên quy mô cả nước. Trên cương vị Chủ tịch nước, mặc dù bận rất nhiều công việc, nhưng hằng năm cứ đến ngày 27 tháng 7, Bác đều trực tiếp gửi thư, tặng quà, đi thăm các đồng chí thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, viếng các anh hùng liệt sĩ ở nghĩa trang liệt sĩ... Người luôn khẳng định ý nghĩa cao cả của ngày “Ngày thương binh, liệt sĩ” và coi đó là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái đối với những người đã sẵn sàng xả thân vì nước, vì dân. Đó cũng là thể hiện tấm lòng bao la của Bác đối với thương binh, liệt sĩ và những người có công với cách mạng.

 

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có sự đồng cảm sâu sắc đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải có trách nhiệm và nghĩa vụ chăm sóc chu đáo cho các đối tượng chính sách.

 

Đây là một đặc trưng nổi bật trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự đồng cảm với những gia đình có người thân đã anh dũng hy sinh cho Tổ quốc không chỉ là sự tiếc thương, ngậm ngùi, đau xót mà còn gợi lên niềm tự hào, sự tôn vinh những thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công đã có đóng góp lớn cho đất nước, cho cách mạng.

 

Trong thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng (7-1-1947), khi đó là Giám đốc y tế Bắc Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam”(3). Trong “Bài điếu đồng chí Hồ Tùng Mậu” (1-8-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn về người đồng chí đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng với lời điếu đầy xúc động: “Tôi với chú là đồng chí, lại là thân thiết hơn anh em ruột. Khi hoạt động ở đất khách quê người, khi bị giam ở lao tù đế quốc, khi đấu tranh ở nước nhà, hơn 25 năm, đã bao phen chúng ta đồng cam cộng khổ, như tay với chân... Mất chú, đồng bào mất một người lãnh đạo tận tụy, Chính phủ mất một người cán bộ lão luyện, Đoàn thể mất một người đồng chí trung thành, và tôi mất một người anh em chí thiết. Mấy nguồn thương tiếc, cộng vào trong một lòng tôi!”(4). Nhân dịp kỷ niệm Hai Bà Trưng và Ngày Quốc tế phụ nữ 8-3-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới phụ nữ cả nước, bày tỏ sự kính trọng, lòng biết ơn về sự hy sinh cao quý của các mẹ, các chị cho kháng chiến. Người viết: “...Tôi kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn các nữ liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc... Tôi kính chào các bà mẹ có con trong bộ đội, và các bà mẹ cùng vợ con của liệt sĩ... Các bà mẹ chiến sĩ và các chị em giúp thương binh đã hòa lẫn lòng yêu nước, yêu con, yêu chiến sĩ thành một mối yêu thương không bờ bến, mà giúp đỡ chiến sĩ và săn sóc thương binh như con em ruột thịt của mình”(5).

 

Không chỉ trực tiếp thăm hỏi, động viên, quan tâm đến thương binh, thân nhân liệt sĩ và người có công, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở các ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương tới địa phương phải luôn “tưởng nhớ đến anh em thương binh, tưởng nhớ đến các gia đình tử sĩ, tưởng nhớ đến những người vô danh anh hùng, hoặc đã hy sinh tính mệnh, hoặc đã góp một phần xương máu trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta”(6). Người đề xướng phong trào “Đón thương binh về làng” để góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho thương binh; đề nghị chính quyền các cấp ở địa phương “trích một phần ruộng công, nếu không có ruộng công thì mượn ruộng của những đồng bào có hằng tâm, hằng sản... để giúp thương binh”; Người khuyên các cháu thiếu nhi lập phong trào Trần Quốc Toản giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội. Trước lúc đi xa, Người đã căn dặn trong Di chúc: “Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình… Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương... cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương... phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”(7). Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là lời căn dặn toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trước lúc từ biệt thế giới này, mà còn tỏa sáng ở con người Bác tính nhân văn cao cả, tấm lòng hết mực yêu thương con người, đặc biệt là đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng.

 

3. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn người thương binh, bệnh binh phải luôn giữ vững tinh thần lạc quan, “tàn nhưng không phế”, phấn đấu trở thành “Người công dân kiểu mẫu” và “Gia đình cách mạng gương mẫu”.

 

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng không chỉ thể hiện ở sự đồng cảm, thấu hiểu và chia sẻ những mất mát lớn của anh, chị em thương, bệnh binh và thân nhân liệt sĩ để cho đất nước “nở hoa độc lập, kết trái tự do”; cũng không chỉ dừng ở việc xác định cụ thể trách nhiệm của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở và toàn dân phải thường xuyên đẩy mạnh việc tưởng nhớ, tri ân, chăm sóc các đối tượng chính sách; mà sự tỏa sáng chủ nghĩa nhân văn trong tư tưởng và hành động của Người còn được thể hiện ở những cử chỉ ân cần, lời khuyên, lời căn dặn, sự chỉ dẫn định hướng phấn đấu đối với anh, chị em thương, bệnh binh, đối với gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá rất cao công lao, thành tích của các thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình quân nhân, những cá nhân và gia đình có công với cách mạng đã “Làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi”. Tình cảm lớn lao và tư tưởng nhân văn của Người tiêu biểu cho tình cảm và truyền thống nhân văn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với các liệt sĩ, thương binh, gia đình có công, phù hợp với đạo lý và truyền thống nhân văn ngàn đời của dân tộc Việt Nam là “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần đi thăm các đồng chí thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với Tổ quốc. Người thường xuyên căn dặn anh, chị em thương binh, bệnh binh phải luôn giữ vững tinh thần lạc quan yêu đời, giữ vững truyền thống vẻ vang và bản chất cách mạng của quân đội; giữ gìn kỷ luật, đoàn kết thương yêu giữa anh, chị em thương, bệnh binh với nhau; đồng thời biết ơn sự săn sóc của nhân dân, của đồng đội, không được ra vẻ công thần, ỷ lại và phải có nghị lực vượt khó khăn, vươn lên trong cuộc sống. Người luôn động viên, khuyến khích thương, bệnh binh khi đã khôi phục sức khỏe cần sớm hòa nhập vào cộng đồng, cố gắng học tập, tham gia sản xuất, cống hiến nhiều cho xã hội, phấn đấu trở thành “Người công dân kiểu mẫu” và những “Gia đình cách mạng gương mẫu”.

 

Tiếp tục chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công

 

Khắc ghi sâu lời căn dặn và sự chỉ dẫn ân cần của Chủ tịch Hồ Chí Minh: thương binh “tàn nhưng không phế”, trong những năm qua, nước ta xuất hiện ngày càng nhiều tấm gương thương binh, bệnh binh, gia đình chính sách đã nỗ lực phấn đấu, vượt lên muôn vàn khó khăn, tích cực công tác và học tập, cần cù, sáng tạo, vươn lên sản xuất, kinh doanh giỏi để làm giàu cho gia đình và xã hội, trở thành nhân tố điển hình tiên tiến trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, có những đồng chí là thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người có công với cách mạng đã và đang đảm nhiệm các vị trí trọng trách công tác lãnh đạo, quản lý từ Trung ương đến cơ sở, trở thành nhà khoa học, doanh nhân thành đạt, người sản xuất giỏi ở các lĩnh vực… Một số cá nhân đã được Nhà nước tuyên dương Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới. Nhiều con của thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng đã vượt qua khó khăn, phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, kế tục xứng đáng truyền thống, sự nghiệp cách mạng của gia đình, quê hương và đất nước.

 

Hiện nay, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã trải qua gần 27 năm, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; quốc phòng và an ninh được củng cố ngày càng vững chắc, ổn định; vị thế của Việt Nam đối với quốc tế ngày càng cao. Cùng với sự phát triển của đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người và gia đình có công giúp đỡ cách mạng, thông qua việc ban hành nhiều chính sách, chế độ và triển khai thực sự hiệu quả trong thực tiễn. Đó vừa thể hiện sáng ngời đạo lý và truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc, vừa thực hiện công bằng xã hội, đền ơn đáp nghĩa đối với người và gia đình có cống hiến, đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, góp phần chăm lo, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của hàng triệu người có công với Tổ quốc. 

 

Tuy nhiên, do hoàn cảnh khách quan của chiến tranh để lại và nhiều vấn đề nảy sinh trong cơ chế mới, nên mặc dù Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các cơ quan chức năng đã có nhiều giải pháp, việc làm cụ thể để thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách xã hội đối với những người và gia đình có công, song đến nay, vẫn tồn đọng không ít vấn đề nan giải, vướng mắc cần tiếp tục tháo gỡ, giải quyết. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hiện nay, cả nước có trên 8,8 triệu đối tượng người có công; trong đó có 1.146.250 liệt sĩ, 49.609 Mẹ Việt Nam anh hùng, 781.021 thương binh và người hưởng chính sách như thương binh, 185.000 thương binh B, 1.253 Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động trong kháng chiến, 101.138 người có công giúp đỡ cách mạng, 186.137 người hoạt động kháng chiến và con đẻ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, 109.468 người hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày, hơn 4,1 triệu người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc và còn trên 1,7 triệu đối tượng có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hằng tháng của Nhà nước. Theo báo cáo mới nhất của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII “Về việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với người có công với cách mạng”, hiện nay, cả nước có khoảng 5% người có công sống dưới mức trung bình. Đây là vấn đề cần được tập trung chỉ đạo để khắc phục nhanh chóng và hiệu quả.

 

Quán triệt chủ trương của Đảng về thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nêu rõ: “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công…”(8).

 

Để Nghị quyết này của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, trước hết đòi hỏi các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị cần triển khai thực hiện tốt hai Pháp lệnh ưu đãi đối với người có công (Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng); đồng thời, tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, chế độ ưu đãi đối với người có công, phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của đất nước. Không ngừng đẩy mạnh xã hội hóa phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” như một nét đẹp truyền thống văn hóa của dân tộc với những việc làm hiệu quả, thiết thực, vừa góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các đối tượng chính sách, vừa góp phần ổn định và phát triển đất nước, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với chế độ xã hội chủ nghĩa./.

----------------------------

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 435

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 5, tr. 175

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 5, tr. 40

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 6, tr. 272

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 6, tr. 431

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 6, tr. 75

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 12, tr. 503-504

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 229