Củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
TCCS - Mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân luôn là nguồn sức mạnh to lớn, làm nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được đáng ghi nhận, thời gian qua việc tăng cường mối quan hệ này vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới.
Ý nghĩa và tầm quan trọng của mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân
Thứ nhất, là nhân tố quyết định sức mạnh của Đảng và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”(1); “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(2).
Trong mọi giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đều gắn bó mật thiết với nhân dân, luôn lấy lợi ích của nhân dân làm nền tảng cho những quyết sách, đường lối của mình; đồng hành, chia sẻ cùng nhân dân và vận động, động viên nhân dân trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng. Hầu hết cán bộ, đảng viên luôn gương mẫu, gần dân, hiểu dân và sẵn sàng phấn đấu, hy sinh vì lợi ích của nhân dân; do vậy, nhân dân luôn tin vào Đảng, ủng hộ Đảng, hết lòng vì cách mạng, sẵn sàng đóng góp sức người, sức của, thậm chí cả xương máu, tính mạng của mình cho cách mạng. Đây chính là nguyên nhân tạo thành sức mạnh của Đảng ta, là yếu tố làm nên thắng lợi của cách mạng nước ta trong 93 năm qua. Chính thông qua mối quan hệ mật thiết với nhân dân mà Đảng phát huy được vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đặc biệt là trong việc kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên; đồng thời, tập hợp, phát huy được sức mạnh, trí tuệ và lực lượng to lớn của nhân dân, tiếp thu những đột phá, sáng tạo trong nhân dân để tiếp tục quá trình đổi mới có hiệu quả hơn.
Thứ hai, là nhân tố bảo đảm cho các phong trào cách mạng của nhân dân phát triển mạnh mẽ, phát huy tốt nhất sức mạnh và quyền làm chủ của nhân dân.
Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là để Đảng lãnh đạo, định hướng các phong trào cách mạng của nhân dân một cách hiệu quả. Các phong trào cách mạng của nhân dân chỉ phát triển đúng hướng khi đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với tầm nhìn sâu rộng, lý luận sắc bén, kinh nghiệm thực tế dày dặn và đội ngũ cán bộ, đảng viên được tôi luyện qua nhiều thử thách, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, định hướng và đưa ra những quyết sách quan trọng cho đất nước và dân tộc. Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất, cần cù, chịu khó, đoàn kết, đồng cam cộng khổ. Đây là những nhân tố quan trọng để cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đi đến thắng lợi trong các cuộc chiến tranh đầy hy sinh, gian khổ. Thông qua mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, nhân dân được tập hợp, được tổ chức trong những tổ chức cách mạng, nhờ đó mà sức mạnh của nhân dân lại được phát huy, nhân lên gấp bội.
Thứ ba, góp phần quyết định tính đúng đắn của chủ trương, đường lối của Đảng trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội trước hết bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách và lãnh đạo, tổ chức thực hiện thông qua các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Một mặt, chủ trương, đường lối của Đảng muốn “đi vào” cuộc sống một cách thuận lợi thì phải lấy lợi ích của nhân dân làm cơ sở và phải bám sát với thực tế cuộc sống; quá trình thực hiện phải vận động được sự tham gia tích cực và ủng hộ nhiệt tình của nhân dân; mặt khác, thông qua cương lĩnh, đường lối của Đảng để thu hút, tập hợp lực lượng nhân dân đi theo Đảng. Một trong những nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn tới nguy cơ chệch hướng là bệnh quan liêu, xa dân của đảng cộng sản cầm quyền và một khi mắc phải căn bệnh quan liêu, xa dân thì cương lĩnh, đường lối của Đảng sẽ không phản ánh được nguyện vọng và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Thông qua mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân mà nhân dân phản ánh, góp ý, phản biện đường lối, chủ trương, chính sách cho Đảng, Nhà nước; thông qua ý kiến của nhân dân mà Đảng chắt lọc, chọn lọc thông tin để đề ra, hoàn thiện, điều chỉnh chủ trương, đường lối cho phù hợp. Đó là con đường và quá trình hoàn thiện cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của một đảng cộng sản cầm quyền chân chính.
Thứ tư, là điều kiện bảo đảm cho công tác tuyên truyền, thuyết phục của Đảng đạt hiệu quả cao nhất.
Hiệu quả công tác tuyên truyền phụ thuộc rất lớn vào mối quan hệ gắn bó, sự hiểu biết, tin tưởng giữa chủ thể tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền. Đối tượng tuyên truyền là nhân dân khi đã tin vào Đảng, gắn bó mật thiết với Đảng, thì mọi thông tin tuyên truyền sẽ đến với nhân dân một cách nhanh chóng, đầy đủ hơn. Ngược lại, nếu mối quan hệ giữa chủ thể tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền không gắn bó chặt chẽ, thiếu sự tin cậy, nếu cán bộ, đảng viên chỉ tuyên truyền lý thuyết suông, giáo điều, tuyên truyền một chiều, nói không đi đôi với làm, không tiên phong, gương mẫu... thì dù có cố gắng bao nhiêu, nhân dân cũng không tin theo.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng và bùng nổ thông tin, công nghệ hiện nay, xuất hiện nhiều luồng thông tin rất nhanh và phức tạp, thì lòng tin của nhân dân là một “bộ lọc” tốt nhất để họ chắt lọc, chọn lọc thông tin; qua đó, sẽ làm gia tăng hiệu quả của công tác tuyên truyền trong cuộc đấu tranh với các luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ năm, góp phần nâng cao vai trò, uy tín và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Thông qua mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên thể hiện vị trí, vai trò, trách nhiệm trước nhân dân, sẵn sàng để nhân dân đánh giá, kiểm tra, giám sát, góp ý; từ đó, tiến hành sàng lọc đảng viên, để nhân dân giới thiệu cho Đảng những nhân tố mới, tiêu biểu. Bên cạnh đó, thông qua mối quan hệ mật thiết với nhân dân để Đảng phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Thứ sáu, tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Thông qua mối quan hệ mật thiết với nhân dân để Đảng nắm thông tin về đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng trong việc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nắm rõ phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, để có thể phát hiện những tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy công quyền. Trong thực tế hiện nay, hơn 70% các vụ việc tiêu cực, tham nhũng được phát hiện là do báo chí và người dân cung cấp thông tin. Điều đó cho thấy, nếu Đảng, chính quyền thực sự dựa vào nhân dân, tin nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân thì cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ đạt được kết quả cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Với Đảng, “Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết”(3). Bởi vậy, “một giây, một phút cũng không thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng”(4).
Thứ bảy, là cơ sở để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thông qua mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân để nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, để các tổ chức này thể hiện được vai trò, trách nhiệm và sự tín nhiệm của mình trước nhân dân; đồng thời, để nhân dân thể hiện được ý chí, chính kiến của mình, thể hiện được quyền làm chủ và vai trò giám sát, phản biện chính sách của mình trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Thực trạng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân hiện nay
Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá: “Công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường”(5). Đánh giá trên dựa trên những căn cứ cụ thể sau:
Một là, thời gian qua đã có sự chuyển biến tích cực trong nhận thức về trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị đối với công tác dân vận. Đảng lãnh đạo cả hệ thống chính trị “coi trọng việc lắng nghe, nắm tình hình và giải quyết những nguyện vọng, kiến nghị hợp pháp, chính đáng, những vấn đề bức xúc của nhân dân”(6); chăm lo thực sự đến mọi mặt đời sống của các tầng lớp nhân dân. Công tác an sinh xã hội ngày càng được chăm lo, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng cao... Nước ta từ một nước nghèo đã trở thành một nước có thu nhập trung bình thấp và xác định khát vọng trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên. Trên cơ sở đó, Đảng, Nhà nước ta có điều kiện để thực hiện việc chăm lo, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân - yếu tố hết sức quan trọng góp phần củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Hai là, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết, văn bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã thể chế hóa thành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đã xây dựng, ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được kiện toàn, củng cố, đổi mới phương thức hoạt động; giữ vai trò nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; đã có nhiều hình thức vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thúc đẩy các hoạt động đối ngoại nhân dân và công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài.
Ba là, Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực rất quyết liệt, với quyết tâm chính trị rất cao; đồng thời, tập trung chỉ đạo tổ chức tốt việc tiếp công dân, đối thoại với công dân và giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân, nhất là tại những địa bàn, lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, những nơi xảy ra điểm nóng, khiếu kiện kéo dài; giải quyết kịp thời những bức xúc, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Nhận thức sâu sắc tính chất phức tạp và sự nguy hiểm của vấn nạn tham nhũng, lãng phí, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm, kiên quyết chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng và suy thoái tư tưởng chính trị. Trung ương đã kiện toàn, tăng cường các cơ quan chức năng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án... Việc lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết nhiều vụ án tham nhũng đã có kết quả tích cực, đáng ghi nhận, góp phần răn đe, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí trong thời gian vừa qua. Các cơ quan hành chính, chính quyền các cấp đã tập trung giải quyết kịp thời, đúng pháp luật nhiều đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Người đứng đầu các ngành, địa phương, đơn vị đã tổ chức tiếp công dân, đối thoại với công dân theo định kỳ có kết quả.
Tổ chức đảng, cấp ủy các cấp quan tâm lãnh đạo đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử. Các phương tiện truyền thông đại chúng đã dựa vào nhân dân, đồng hành với nhân dân trong công cuộc đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, góp phần tích cực củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Bốn là, phương thức tiến hành công tác dân vận của Đảng, việc thực hiện của các cấp ủy đã có nhiều đổi mới, bám sát nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Nội dung công tác dân vận đã tập trung giải quyết những vấn đề cụ thể, như xóa đói, giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là tập trung đầu tư, ưu tiên cho đồng bào các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn...; gắn tuyên truyền, vận động nhân dân với giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; gắn việc tập hợp, thu hút các tầng lớp nhân dân với thực hiện các dự án kinh tế - xã hội, củng cố các tổ chức và hoạt động của các đoàn thể nhân dân. Hình thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân khá đa dạng, phong phú, gắn với đặc điểm đối tượng và hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, cơ quan, đơn vị.
Những kết quả của công tác dân vận thời gian qua đã góp phần quyết định vào việc tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân có nơi, có lúc còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót; cụ thể là:
Thứ nhất, việc theo dõi, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là ở những địa bàn phức tạp còn chưa kịp thời, sâu sát; việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu thiết thân của nhân dân vẫn chưa thực sự chắc chắn, chưa sâu sát; từ đó, dẫn đến việc đề ra một số chủ trương, chính sách đối với các tầng lớp nhân dân chưa kịp thời, chưa bám sát những biến đổi trong thực tiễn và điều kiện, hoàn cảnh của đất nước. Bên cạnh đó, việc quán triệt, nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận chưa sâu sắc; chưa dự báo, nắm bắt đầy đủ những diễn biến, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có biện pháp xử lý phù hợp, vẫn còn có lúc việc xử lý tình huống bức xúc, “điểm nóng” chưa kịp thời.
Thứ hai, công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân còn một số bất cập. Việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận ở một số cấp ủy còn kém hiệu quả. Công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân có lúc, có nơi còn giáo điều, xa rời thực tế, lý thuyết suông, chưa sát hợp với trình độ, phong tục, tập quán của người dân.
Thứ ba, việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; công tác tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên; việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Phương pháp vận động, tập hợp nhân dân có lúc, có nơi còn chưa phù hợp với từng đối tượng, nhất là đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, đồng bào theo tôn giáo.
Thứ tư, vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân ở một số nơi chưa thường xuyên, hiệu quả còn thấp, nhất là giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa đạt hiệu quả như mong đợi.
Thứ năm, một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, chưa thúc đẩy công tác phối hợp của hệ thống chính trị trong thực hiện công tác dân vận; một số nơi còn chưa coi trọng việc lấy ý kiến nhân dân nên có chính sách chưa đáp ứng được nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân... Thậm chí, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, còn thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, xa dân, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân. Một số cán bộ có chức, có quyền chẳng những không gương mẫu, mà còn nêu gương xấu trước quần chúng, nói không đi đôi với làm, bố trí thần tốc, đề bạt con cháu, người thân vào các chức vụ quan trọng, nhưng không tương xứng với năng lực, trình độ, uy tín, để xảy ra những vụ việc sai phạm, tham nhũng trong phạm vi lãnh đạo, quản lý... Những biểu hiện, tình trạng này làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Thứ sáu, công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết có lúc, có nơi còn chưa được quan tâm đúng mức. Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, một số bức xúc kéo dài chưa được giải quyết kịp thời; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi còn mang tính hình thức hoặc bị vi phạm,... gây tâm lý dồn nén, tích tụ bức xúc trong nhân dân; một bộ phận nhân dân bị các thế lực thù địch, đối tượng cực đoan lợi dụng kích động, gây ra nhiều vụ việc phức tạp, tạo “điểm nóng” về an ninh, trật tự.
Giải pháp củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong giai đoạn hiện nay
Để củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới trong giai đoạn hiện nay, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra những giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy, các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác dân vận trong tình hình mới. Đại hội XIII của Đảng đề ra giải pháp trước tiên là: “Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận”(7). Trong điều kiện mới, trước yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn đổi mới đất nước, đòi hỏi phải tiếp tục có sự chuyển biến mạnh mẽ, quyết liệt hơn nữa trong nhận thức, hành động của các cấp ủy và cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; từ đó, đề cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và từng người dân để công tác dân vận đạt được mục tiêu và hiệu quả đã đề ra. Trong thời gian qua, nhận thức về công tác dân vận của một số cấp ủy, tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đầy đủ; chưa nêu cao trách nhiệm, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp của cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện công tác dân vận; vẫn còn không ít cán bộ, công chức xem nhẹ vai trò, ý nghĩa của công tác dân vận, dẫn đến tình trạng chưa quan tâm, chú ý đúng mức tới việc vận động, tuyên truyền, thuyết phục, tạo sự đồng tình, ủng hộ của người dân trong quá trình thực hiện công tác quản lý nhà nước.
Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm lãnh đạo công tác dân vận của cấp ủy, sự vào cuộc của hệ thống chính trị trong thực hiện công tác dân vận, các cấp ủy cần tập trung thực hiện tổ chức quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận một cách hiệu quả. Trung ương cần có những quy định cụ thể đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, đưa nội dung công tác dân vận vào trong sinh hoạt đảng hằng tháng.
Hai là, tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”; chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác dân vận. Đại hội XIII của Đảng đề ra giải pháp: “Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”(8); “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”; đồng thời, “Chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác dân vận”(9).
Để tăng cường chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, nhất thiết phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận của Đảng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tham mưu chiến lược. Muốn vậy, cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ xứng đáng nhằm thu hút người có năng lực, có uy tín, kỹ năng, phương pháp và kinh nghiệm làm công tác dân vận; chú trọng luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, nhất là cán bộ trẻ, có năng lực và được đào tạo bài bản; khắc phục tình trạng đưa cán bộ sắp đến tuổi nghỉ hưu hay phẩm chất, năng lực yếu kém và không có uy tín về làm công tác dân vận. Kiện toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực hoạt động thực tiễn và kỹ năng công tác vận động nhân dân. Các cơ quan tham mưu của Đảng phải nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong công tác tham mưu, tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng về công tác dân vận; duy trì chế độ thường xuyên báo cáo, thông tin kịp thời, đầy đủ về tình hình các tầng lớp nhân dân và những hạn chế, khuyết điểm trong công tác dân vận của cấp ủy các cấp.
Cùng với việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, cũng phải chú trọng xây dựng lực lượng nòng cốt là người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo (già làng, trưởng bản, các chức sắc tôn giáo) làm công tác dân vận ở cơ sở. Họ chính là những “cánh tay nối dài” giữa Đảng, chính quyền với nhân dân.
Ba là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan đảng, nhà nước và chính quyền các cấp. Thời gian qua, hiệu quả của một số nghị quyết, chương trình lãnh đạo công tác dân vận còn chưa cao, không ít nội dung chưa đi vào thực tiễn cuộc sống, chưa đáp ứng được nguyện vọng, lợi ích hợp pháp, chính đáng của một bộ phận nhân dân nên đã gây ra những bức xúc, khiếu kiện phức tạp đông người. Bên cạnh đó, việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng liên quan đến công tác dân vận còn chưa phù hợp, kịp thời, chưa sát với tình hình thực tiễn và bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân. Do đó, đổi mới việc ra nghị quyết, chương trình lãnh đạo công tác dân vận, xây dựng quy chế làm việc, bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện, thường xuyên của Đảng đối với công tác dân vận là một yêu cầu cần thiết; đồng thời, là một trong những giải pháp quan trọng, có ý nghĩa sâu sắc đối với việc đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác dân vận trong tình hình mới.
Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh:“Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan đảng, nhà nước và chính quyền các cấp”(10). Cụ thể là, đổi mới việc ban hành nghị quyết, chương trình lãnh đạo công tác dân vận của Đảng, xây dựng quy chế làm việc, bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện, thường xuyên của Đảng đối với công tác dân vận; đồng thời, tăng cường và đổi mới công tác dân vận của cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp; tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những kiến nghị, bức xúc và nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân.
Bốn là, nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; đa dạng hóa các hình thức tổ chức và phương thức tập hợp, vận động, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân.
Sở dĩ Đại hội XIII của Đảng đề ra giải pháp: “Nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân”(11) là bởi vì, ở không ít địa phương, những năm qua chưa phát huy thật tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội ở một số cơ sở giảm sút vai trò, phối hợp thiếu chặt chẽ, không sát dân, không làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân.
Để nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các cấp ủy, tổ chức đảng, một mặt, phải tôn trọng tính độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân; mặt khác, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tính chủ động hơn nữa trong hoạt động, để gần dân, sát dân hơn.
Năm là, tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận”(12); bởi thời gian qua, không ít nơi chưa thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản của Đảng về công tác dân vận. Một số nơi chưa coi trọng việc lấy ý kiến nhân dân khi ban hành chính sách, pháp luật; hiệu quả công tác tiếp dân, đối thoại, giải quyết đơn, thư khiếu nại còn hạn chế...
Do đó, các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở phải đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc tổ chức thực hiện để nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận sớm đi vào cuộc sống, có hiệu quả thiết thực. Xây dựng kế hoạch hằng quý, hằng năm về tìm hiểu, nắm bắt tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để có chủ trương, biện pháp xử lý đúng đắn, kịp thời. Các cấp ủy lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần phối hợp chặt chẽ trong giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân và vận động nhân dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của công dân. Các cơ quan đảng ở Trung ương thường xuyên phối hợp, kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện; đồng thời, theo dõi, kiểm tra việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân vận. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, giải đáp kịp thời những vấn đề mới mà thực tiễn đang đặt ra đối với công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới../.
------------------------
(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 333, 335
(3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 278, 325
(5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 201 - 202, 202
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 248
(8), (9), (10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 248, 249, 248
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh  (04/02/2023)
Xu thế đổi mới quản trị công trên thế giới và vấn đề hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng  (17/12/2022)
Hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng  (29/11/2022)
Bảo đảm tính khả thi của pháp luật theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng  (11/09/2022)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển