Quan điểm của Ph. Ăng-ghen về tư duy lý luận và ý nghĩa đối với việc đổi mới tư duy về phát triển kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam hiện nay
TCCS - Cùng với tồn tại, tư duy là một trong những vấn đề xuyên suốt trong lịch sử triết học của mọi thời đại. Là một trong những người sáng lập ra triết học Mác-xít, Ph. Ăng-ghen cũng bàn đến rất nhiều về vấn đề tư duy, nhất là về tư duy lý luận. Những chỉ dẫn của Ph. Ăng-ghen về tư duy lý luận không chỉ có ý nghĩa trong đấu tranh chống lại những quan điểm sai lầm, chiết trung về khả năng nhận thức của con người, mà còn có ý nghĩa to lớn đối với Đảng ta trong việc đổi mới tư duy về phát triển kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
Quan điểm của Ph. Ăng-ghen về tư duy lý luận
Vấn đề tư duy đã được Ph. Ăng-ghen bàn đến trong nhiều tác phẩm. Trong tác phẩm “Chống Đuy-rinh”, ở Phần thứ nhất với tên gọi “Triết học”, khi tranh luận với O. Đuy-rinh về vấn đề những nguyên lý, Ph. Ăng-ghen viết: “Nếu người ta đặt câu hỏi rằng tư duy và ý thức là gì, chúng từ đâu đến, thì người ta thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc con người và bản thân con người, là sản vật của giới tự nhiên, một sản vật đã phát triển trong một môi trường nhất định và cùng với môi trường đó. Vì vậy, lẽ tự nhiên là những sản vật của bộ óc con người, - quy đến cùng cũng là những sản vật của giới tự nhiên - không mâu thuẫn mà lại còn phù hợp với mối liên hệ còn lại của giới tự nhiên”(1). Từ luận giải nói trên, chúng ta nhận thấy Ph. Ăng-ghen đã khẳng định ý thức, tư duy của con người chính là chức năng của bộ não. Bộ não người là một dạng vật chất có tính tổ chức cao, có khả năng sản sinh ra tư duy, ý thức. Quan điểm này không chỉ là sự bác bỏ những luận điểm duy tâm của O. Đuy-rinh khi cho rằng những nguyên lý được rút ra từ tư duy chứ không phải từ thế giới bên ngoài, mà còn khẳng định rõ lập trường duy vật triệt để của Ph. Ăng-ghen khi bàn về vấn đề tư duy nói riêng và quá trình nhận thức của con người nói chung.
Không chỉ dừng lại ở vấn đề tư duy, Ph. Ăng-ghen còn bàn nhiều đến vấn đề tư duy lý luận với tính cách là một nấc thang trong tiến trình nhận thức thế giới của con người. Vấn đề này được bàn đến trực tiếp trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, nhất là ở “Bài tựa cũ của cuốn Chống Đuy-rinh. Về phép biện chứng”. Trong tác phẩm này, tuy Ph. Ăng-ghen không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tư duy lý luận, nhưng bằng việc lược khảo tiến trình phát triển của tư duy nhân loại từ thời cổ đại đến bấy giờ, ông khẳng định: Tư duy lý luận là trình độ phát triển cao của năng lực tư duy con người. Nó mang tính lịch sử, là sản phẩm của lịch sử và ở mỗi thời đại khác nhau là khác nhau. Ông viết: “Tư duy lý luận của mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta, là một sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau”(2). Điều đó đồng nghĩa với việc ông cho rằng, dù là một hình thức phát triển cao của tư duy nhưng tư duy lý luận không phải là một chân lý vĩnh viễn, không thay đổi được. Vì vậy, ông đã đồng nhất khoa học về tư duy với khoa học lịch sử theo nghĩa, việc nghiên cứu về tư duy nói chung và tư duy lý luận nói riêng cũng phải mang tính lịch sử, cũng có sự thay đổi gắn với điều kiện của mỗi thời đại khác nhau: “Thế cho nên cũng như bất kỳ khoa học nào khác, khoa học về tư duy là một khoa học lịch sử, là khoa học về sự phát triển lịch sử của tư duy con người”(3).
Cũng trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph. Ăng-ghen còn bàn đến những điều kiện hình thành tư duy lý luận. Cụ thể như sau:
Một là, tư duy lý luận phải được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm. Điểm xuất phát của tư duy lý luận chính là những kinh nghiệm được con người tích lũy trong cuộc sống hằng ngày. Không có kinh nghiệm thì sẽ không có sự khám phá của con người về những quy luật vận động nội tại, tất yếu của các sự vật, hiện tượng. Những kinh nghiệm được tích lũy đã đòi hỏi phải có sự hệ thống hóa và phải tìm ra một sự liên hệ bên trong tất yếu của nó. Thực hiện được điều đó cũng có nghĩa là tư duy đã chuyển qua được giai đoạn kinh nghiệm lên giai đoạn mới cao hơn - giai đoạn tư duy lý luận. Ph. Ăng-ghen mô tả quá trình đó như sau: “Khoa học tự nhiên kinh nghiệm đã tích lũy được một khối lượng tài liệu chính diện to lớn đến nỗi ngày nay tuyệt đối bức thiết phải sắp xếp những tài liệu ấy lại một cách có hệ thống và dựa vào mối liên hệ nội tại của chúng trong lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt. Người ta cũng thấy không kém cần thiết phải sắp xếp những lĩnh vực khác nhau của tri thức theo một liên hệ đúng đắn giữa lĩnh vực nọ với lĩnh vực kia. Nhưng làm thế thì khoa học tự nhiên đã chuyển sang lĩnh vực lý luận và trong lĩnh vực này những phương pháp kinh nghiệm trở nên bất lực, chỉ có tư duy lý luận mới có thể giúp ích được”(4). Những mô tả khá cụ thể đó của Ph. Ăng-ghen đồng nghĩa với việc khẳng định tư duy lý luận không phải tự nhiên mà có; nó chính là một giai đoạn phát triển cao của tư duy con người dựa trên việc tích lũy kinh nghiệm và bắt nguồn từ nhu cầu phải khái quát những kinh nghiệm đó thành hệ thống và tìm ra mối liên hệ của tri thức ở các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau.
Hai là, tư duy lý luận phải gắn liền với khoa học, nhất là khoa học tự nhiên. Theo Ph. Ăng-ghen, việc gắn với sự phát triển khoa học sẽ giúp cho tư duy nắm được những quy luật và các mối liên hệ bên trong giữa các sự vật, hiện tượng. Vì vậy, thật dễ hiểu tại sao trước khi bắt tay vào nghiên cứu những vấn đề triết học, Ph. Ăng-ghen và C. Mác đều nghiên cứu những vấn đề của khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ: “Những thành tựu khoa học tự nhiên hiện đại đã chẳng bắt buộc bất kỳ một người nào nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng phải thừa nhận chúng, bắt buộc với một sức mạnh khiến các nhà khoa học tự nhiên hiện đại, dù họ muốn hay không - phải tiến tới những kết luận chung, đó sao?”(5). Điều đó có nghĩa là khoa học tự nhiên đưa lại những cơ sở khách quan cho tư duy lý luận. Trên cơ sở đó, Ph. Ăng-ghen phê phán những quan điểm nửa vời, chiết trung về triết học. Ông cho rằng, một trong những nguyên nhân của sự nửa vời đó là do nửa vời về tư duy lý luận, trong đó quan trọng nhất là sự nửa vời về khoa học tự nhiên. Ông viết: “Nếu những nhà lý luận là những người nửa thông thái trong lĩnh vực khoa học tự nhiên thì các nhà khoa học tự nhiên ngày nay, trong một mức độ như thế, cũng thực sự là những người nửa thông thái trong lĩnh vực lý luận, trong lĩnh vực của cái mà cho tới nay người ta gọi là triết học”(6).
Ba là, tư duy lý luận không thể tách rời tư duy biện chứng duy vật. Theo Ph. Ăng-ghen, tư duy biện chứng duy vật chính là hình thức cao nhất của tư duy lý luận. Ph. Ăng-ghen rất đề cao vai trò của phép biện chứng đối với tư duy lý luận. Ông cảnh báo: “Trong thực tế, khinh miệt phép biện chứng thì không thể không bị trừng phạt. Dù người ta tỏ ý khinh thường mọi tư duy lý luận như thế nào đi nữa, nhưng không có tư duy lý luận thì người ta cũng không thể liên hệ hai sự kiện trong giới tự nhiên với nhau được, hay không hiểu được mối liên hệ giữa hai sự kiện đó... sự khinh thường lý luận là con đường... đưa chúng ta đến chỗ suy nghĩ theo lối tự nhiên chủ nghĩa, tức là suy nghĩ sai”(7). Luận điểm nêu trên của Ph. Ăng-ghen đã khẳng định, phép biện chứng giúp cho tư duy của con người thấy được bản chất của giới tự nhiên là mối liên hệ tác động qua lại nhau. Điều đó tránh được những sai lầm trong hoạt động nhận thức. Cũng trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, cùng với việc phân tích những hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình, Ph. Ăng-ghen khẳng định: “Trên thực tế, ở đây, ngày nay không còn một lối thoát, không còn một khả năng nào để có thể nhìn thấy ánh sáng nếu không từ bỏ tư duy siêu hình mà quay trở lại với tư duy biện chứng, bằng cách này hay cách khác”(8), và “chỉ có phép biện chứng mới có thể giúp cho khoa học tự nhiên vượt khỏi những khó khăn về lý luận”(9). Thông qua việc chỉ ra những hạn chế của phép biện chứng thời cổ đại và trong triết học cổ điển Đức, Ph. Ăng-ghen đã đề cao vai trò của C. Mác trong việc cải tạo lại phép biện chứng duy tâm của Hê-ghen trên lập trường duy vật. Cùng với việc đề cao phép biện chứng, Ph. Ăng-ghen còn đi đến một khẳng định quan trọng là, nhờ có phép biện chứng mà tư duy lý luận được hình thành một cách tự giác, dễ dàng và được rút ngắn hơn nhiều.
Bốn là, muốn có tư duy lý luận phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc toàn bộ lịch sử triết học. Theo Ph. Ăng-ghen, tư duy lý luận ở mỗi chúng ta chỉ tồn tại dưới dạng năng lực tiềm tàng, không phải tự nhiên mà có, nên việc nghiên cứu một cách nghiêm túc lịch sử triết học của nhân loại sẽ làm cho năng lực đó trở thành hiện thực. Ông viết: “Nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà có thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước”(10).
Như vậy, với việc chỉ ra bốn điều kiện cơ bản cho việc hình thành tư duy lý luận, Ph. Ăng-ghen đã cung cấp cho chúng ta những phương pháp luận đúng đắn và cần thiết trong việc hình thành tư duy lý luận trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Không chỉ có vậy, trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, ông còn chỉ ra vai trò to lớn của tư duy lý luận bằng một luận điểm nổi tiếng: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”(11). Luận điểm này chứng tỏ tư duy lý luận chính là thước đo trình độ phát triển khoa học của một quốc gia, một dân tộc. Tư duy lý luận là điều kiện tiên quyết phản ánh sự phát triển khoa học của mỗi thời đại. Vì vậy, thông qua những gương mặt tiêu biểu có tầm cao về tư duy lý luận, như Can-tơ, Hê-ghen, C. Mác, Ph. Ăng-ghen..., chúng ta cũng có thể lý giải được tại sao Đức là một trong những nước có trình độ khoa học phát triển bậc nhất ở châu Âu vào thế kỷ XIX.
Ý nghĩa đối với việc đổi mới tư duy về phát triển kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam hiện nay
Quan điểm của Ph. Ăng-ghen về bản chất của tư duy lý luận, những điều kiện hình thành tư duy lý luận và vai trò của nó không chỉ có ý nghĩa to lớn trong thời đại của Ph. Ăng-ghen - thời đại cần phải tìm hiểu và nắm vững những điều kiện hình thành một kiểu tư duy lý luận mới, khác về chất so với những kiểu tư duy lý luận trước đó - mà còn có ý nghĩa khoa học sâu sắc đối với mỗi chúng ta trong thời đại ngày nay, đặc biệt là đối với Việt Nam đang trên con đường tiếp tục đổi mới và hoàn thiện tư duy lý luận để có thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Việc lựa chọn phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là kết quả của công cuộc đổi mới tư duy - bắt đầu từ đổi mới tư duy về kinh tế, được Đảng ta thông qua từ Đại hội VI (tháng 12-1986). Sự lựa chọn đó xuất phát từ nhận thức đúng đắn của Đảng ta về thực chất của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, có thể tồn tại và thích ứng với nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau; nó được phát triển với trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản song không đồng nhất với chủ nghĩa tư bản và cũng không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Dù không phải là một cơ chế hoàn hảo, song kinh tế thị trường vẫn chứng tỏ là một cơ chế thúc đẩy sự sáng tạo, huy động, phân bổ nguồn lực hợp lý và phát triển toàn diện nền kinh tế. Tự thân kinh tế thị trường không đưa đến chủ nghĩa xã hội, nhưng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công, tất yếu phải phát triển kinh tế thị trường. Đó là lý do tại sao Đảng ta có sự đổi mới tư duy về phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Cho đến nay, quan điểm về phát triển kinh tế thị trường đã từng bước được Đảng ta cụ thể hóa, có những điều chỉnh phù hợp hơn với thực tiễn phát triển của đất nước qua mỗi giai đoạn lịch sử. Nếu như trước đây, quan điểm của Đảng ta là phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung, thì đến Đại hội XII (năm 2016), lần đầu tiên Đảng ta đưa ra quan điểm về phát triển kinh tế thị trường hiện đại - một sự cụ thể hóa hơn nội hàm của kinh tế thị trường nói chung: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh””(12).
Từ quan điểm nêu trên, có thể nhận thấy, Đảng ta xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một bộ phận của nền kinh tế thế giới, đó là một nền kinh tế “mở”, hiện đại, vận hành theo quy luật của thị trường. Thị trường phân bổ nguồn lực, Nhà nước quản lý bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ sở khách quan của chủ trương này xuất phát từ quá trình thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua vẫn còn những hạn chế, bất cập, chưa thật sự phát huy đầy đủ quyền tự do kinh doanh của người dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, chưa thu hút được nhiều nguồn lực, nguồn đầu tư cho phát triển kinh tế đất nước. Việc hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất lượng không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển. Do đó, quan điểm về phát triển kinh tế thị trường hiện đại vừa thể hiện một bước tiến mới trong nhận thức về kinh tế thị trường, vừa phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước ta hiện nay.
Quan điểm về phát triển kinh tế thị trường hiện đại được Đảng ta đưa ra cũng cho thấy sự khác biệt về chất của kinh tế thị trường ở Việt Nam so với kinh tế thị trường ở nhiều nước trên thế giới. Trong đó, sự khác biệt lớn nhất là ở “đối tượng làm chủ sức mạnh nền kinh tế”. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, giới chủ tư bản làm chủ sức mạnh nền kinh tế; còn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đông đảo nhân dân lao động làm chủ sức mạnh nền kinh tế. Sự khác biệt đó đã nói rõ tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát huy tính ưu việt này, định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế của Việt Nam cần có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhằm bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, phát huy các nguồn tiềm năng lớn để thúc đẩy, phát triển kinh tế - xã hội. Đây là một sự bổ sung, hoàn thiện về phát triển kinh tế thị trường trong tiến trình hội nhập quốc tế sâu, rộng trên nhiều cấp độ; góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam trở thành một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường thế giới. Sự bổ sung, hoàn thiện đó khiến cho nội hàm của kinh tế thị trường ở Việt Nam ngày càng cụ thể và rõ ràng hơn, phù hợp hơn với xu hướng phát triển của thực tiễn. Đó cũng chính là biểu hiện rõ nét của sự đổi mới tư duy lý luận không ngừng của Đảng ta về phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế thị trường nói riêng. Do vậy, có thể nói, những chỉ dẫn của Ph. Ăng-ghen về vai trò của tư duy lý luận là cơ sở lý luận vững chắc để Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy lý luận về những nội dung, phương pháp, cách thức phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Có thể nhận thấy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một mô hình hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Do vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình hoàn thiện, đổi mới và sáng tạo không ngừng, trước hết là trong nhận thức cũng như trong tư duy lý luận. Việc Đảng ta đưa ra quan điểm về phát triển kinh tế thị trường hiện đại là nhấn mạnh tính hiện đại và hội nhập của nền kinh tế; đồng thời, khẳng định việc tuân thủ các chuẩn mực chung của thế giới để phát triển, thực hiện tự do hóa trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, tài chính, dịch vụ, lao động có trình độ... và quan trọng hơn, là phải tuân thủ các cam kết quốc tế đã ký, nỗ lực cải cách thể chế kinh tế, từng bước đáp ứng các tiêu chí để được công nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ. Thuộc tính mới này của nền kinh tế đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả; phát triển nhanh và bền vững; tham gia vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu; phát triển kinh tế tri thức, chú trọng đổi mới sáng tạo trên nền tảng khoa học - công nghệ hiện đại; thiết lập các thị trường sản xuất, hàng hóa và dịch vụ có hiệu quả; phát triển hệ thống an sinh và phúc lợi xã hội tiên tiến; thúc đẩy và hoàn thiện những chuẩn mực văn minh trong sản xuất và tiêu dùng...
Nền kinh tế thị trường hiện đại chính là nấc thang cao trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường. Vì thế, ngoài những đặc trưng mang tính phổ quát của nền kinh tế thị trường tự do trước đây, nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay còn mang một số đặc trưng mới, mang tính thời đại như sau:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên nền tảng sở hữu hỗn hợp của các chủ thể thị trường. Trong nền kinh tế này, sở hữu hỗn hợp dựa trên chế độ cổ phần phải chiếm ưu thế phổ biến. Bởi vì, sở hữu hỗn hợp chiếm ưu thế phổ biến là kết quả xã hội hóa sản xuất và xã hội hóa sở hữu ở trình độ cao do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học, công nghệ và trình độ quản lý. Hình thức sở hữu này đang ngày càng phát triển, từng bước vượt qua biên giới của một quốc gia và gắn liền với sự phát triển mạnh của các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên những thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức - một trong những nhân tố quyết định trực tiếp đến sự giàu mạnh, văn minh của mọi quốc gia. Những thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại sẽ tạo ra những bước đột phá cả trong sản xuất, quản lý và phát triển xã hội; kết tinh ngày càng nhiều hàm lượng tri thức vào trong mỗi sản phẩm lao động được tạo ra, làm cho chúng không còn là sản phẩm riêng của một quốc gia mà mang tính toàn cầu hóa, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế trên cả bề rộng và chiều sâu.
Thứ ba, nền kinh tế thị trường hiện đại phải có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại với nòng cốt là các lĩnh vực: công nghiệp - thị trường, hệ thống kết cấu hạ tầng, các ngành dịch vụ cao cấp (đặc biệt là dịch vụ tài chính và ngân hàng). Ngoài ra, nông nghiệp và nông thôn, về cơ bản, phải được phát triển trên nền tảng công nghiệp và thị trường hiện đại; kinh tế tư nhân phát triển...
Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng làm chủ được khoa học và công nghệ với trình độ quản lý hiện đại. Trong nền kinh tế này, “công nhân cổ cồn” có trình độ đại học là phổ biến; xu hướng trí thức hóa công nhân ngày một gia tăng. Do đó, các trường đại học, các viện nghiên cứu được phát triển thành doanh nghiệp của ngành công nghiệp “không khói”. Số nhân viên làm việc cho nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai và các vườn ươm công nghệ mới sẽ nhiều hơn số công nhân đứng máy trực tiếp tại các doanh nghiệp sản xuất. Ngoài ra, số công nhân dịch vụ tăng nhanh, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Đây là sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế tri thức trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
Thứ năm, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên hệ thống an sinh xã hội hiện đại và một hệ thống phúc lợi vì mục tiêu phát triển con người. Hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội này được xây dựng bằng sự đóng góp của chủ doanh nghiệp, người lao động, Nhà nước và các tổ chức xã hội khác nhằm hỗ trợ người lao động, đặc biệt là hỗ trợ người yếu thế trước những biến động và rủi ro của thị trường do tác động ngày càng lớn của toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu. Hệ thống an sinh và phúc lợi xã hội sẽ góp phần hạn chế những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường nói chung.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường hiện đại là hướng đi đúng đắn cho nước ta trong giai đoạn hiện nay nhằm từng bước khắc phục những hạn chế, khuyết tật của nền kinh tế thị trường trước đó, đồng thời hướng đến mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Việc đổi mới tư duy về phát triển kinh tế thị trường hiện đại không chỉ là kết quả của sự nhận thức, vận dụng sáng tạo những chỉ dẫn của Ph. Ăng-ghen về vai trò của tư duy lý luận đối với hoạt động thực tiễn mà còn cho thấy sự tìm tòi, khảo nghiệm không ngừng của Đảng ta về đường lối, chủ trương phát triển kinh tế hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Có thể nói, mục tiêu cao đẹp đó chính là ngọn đuốc soi đường cho Đảng ta trong việc vượt qua những thách thức, khắc phục mọi khó khăn để không ngừng đổi mới tư duy lý luận về con đường phát triển đất nước./.
------------------------------
(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 55
(2), (3), (4), (5) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 20, tr. 487, 486 – 487
(5), (6), (7), (8), (9), (10), (11) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 20, tr. 508, 490, 487, 489
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 102
Yêu cầu đổi mới quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay  (12/01/2020)
Hà Nội cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh  (29/12/2019)
Về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước  (29/12/2019)
Về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước  (29/12/2019)
Hàn Quốc - một trong những đối tác quan trọng hàng đầu của ASEAN  (28/11/2019)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển