Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và sự vận dụng sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam

PGS.TS. Đoàn Minh Huấn Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
20:03, ngày 12-03-2018

TCCSĐT - Ngày 24 tháng 2 năm 1848, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản - một văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch sử và tràn đầy sức sống thực tiễn của chủ nghĩa Mác, một tác phẩm lý luận bất hủ do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo theo sự ủy nhiệm của Đồng minh những người cộng sản - một tổ chức công nhân quốc tế - lần đầu tiên được xuất bản tại Luân Đôn (thủ đô nước Anh).



Với hoạt động không biết mệt mỏi của C.Mác và Ph.Ăngghen, tư tưởng của các ông đã thâm nhập và làm thay đổi hoạt động các tổ chức công nhân, đặc biệt là tổ chức “Đồng minh những người chính nghĩa”. Tháng 6 - 1947, Đồng minh tiến hành đại hội ở Luân Đôn và đã đổi tên thành “Đồng minh những người cộng sản” theo đề nghị của C.Mác và Ph.Ăngghen. Đại hội lần thứ nhất của Đồng minh có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu một thắng lợi lớn về tổ chức và tư tưởng, chứng tỏ giai cấp công nhân đã bước đầu tiếp thu học thuyết cách mạng mácxít. Tháng 12-1847, tổ chức “Đồng minh những người Cộng sản” tiến hành Đại hội lần thứ hai. Đại hội nhất trí thông qua Điều lệ của tổ chức. C.Mác và Ph.Ăngghen được Đại hội ủy quyền soạn thảo cương lĩnh dưới dạng một bản Tuyên ngôn.

Sự ra đời của Tuyên ngôn đã “đánh dấu một bước tiến trong khoa học lịch sử”, một giai đoạn mới về chất trong sự phát triển tri thức của nhân loại nói chung và là một mốc son trong lịch sử phát triển tư tưởng của nhân loại và chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản khoa học nói riêng.

Ý nghĩa, giá trị và sức sống đó của Tuyên ngôn thể hiện trước hết là ở bản chất cách mạng và nội dung khoa học sâu sắc của nó. 40 năm sau lần đầu tiên xuất bản tác phẩm bất hủ này, trong Lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Hiện nay, hiển nhiên đó là tác phẩm phổ biến hơn cả, có tính chất quốc tế hơn cả trong tất cả các văn phẩm xã hội chủ nghĩa. Đó là cương lĩnh được thừa nhận bởi hàng triệu công nhân từ Xi-bia đến Ca-li-phoóc-ni-a”(1).

Cũng trong Lời tựa này, Ph.Ăngghen cũng nhấn mạng rằng: toàn bộ lịch sử của nhân loại, kể từ khi xuât hiện xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp đó hiện đã phát triển tới giai đoạn mà trong đó, giai cấp bị áp bức bóc lột - giai cấp vô sản, không còn có thể tự giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột mình - giai cấp tư sản, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn xã hội khỏi ách bóc lột, áp bức, khỏi tình trạng phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp.

1. Tư tưởng chủ đạo của Tuyên ngôn

Những luận điểm, tư tưởng cơ bản và chủ đạo được xây dựng trên nền tảng vững chắc của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và lần đầu tiên những tư tưởng này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày hoàn chỉnh, cô đọng, súc tích và có hệ thống. Như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1883: “Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của “Tuyên ngôn” là: trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi cuộc đấu tranh giai cấp”(2).

65 năm sau, trong tác phẩm Các Mác, V.I.Lênin đã khẳng định: Tuyên ngôn là tác phẩm đã “trình bày một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để - chủ nghĩa duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội, - phép biện chứng với tư cách là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng - trong lịch sử toàn thế giới - của giai cấp vô sản, tức là giai cấp sáng tạo ra một xã hội mới, xã hội cộng sản”(3). Vì vậy, Người khẳng định: chúng ta lấy bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản làm cơ sở” cho việc xây dựng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, cho sự nghiệp xây dựng chế độ mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.

Về mặt lý luận, Tuyên ngôn có nhiệm vụ thuyết trình về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, đồng thời có nhiệm vụ đập tan mọi câu chuyện hư truyền về “bóng ma cộng sản” mà các thế lực thù địch đang rêu rao.

Khác với những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng trước đó, khi nói đến giai cấp vô sản, họ chỉ coi họ đơn giản chỉ là một số đông quần chúng nghèo khổ, thất học, bần cùng thì ngược lại, C.Mác và Ph. Ăngghen đã nhận thấy rằng giai cấp vô sản có những nhân tố thực sự cách mạng, chính nó sẽ có vai trò lịch sử to lớn cho việc kiến tạo một xã hội mới. Các ông viết: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển cảu đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”(4).

Trong tác phẩm, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định địa vị lịch sử của chế độ tư bản chủ nghĩa và sự tất yếu nó sẽ bị thay thế bởi một chế độ xã hội mới - chế độ xã hội chủ nghĩa; chỉ rõ vai trò của Đảng cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đã đưa ra tư tưởng về chuyên chính vô sản (mặc dù chưa đưa ra thuật ngữ này) và cũng đã luận chứng những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Tác phẩm còn chỉ rõ mục đích của những người cộng sản và thái độ của những người cộng sản đối với vấn đề sở hữu, tổ quốc, gia đình, đạo đức, đã phê phán các luận điểm của chủ nghĩa xã hội phong kiến, tiểu tư sản, quan điểm của giai cấp tư sản về chủ nghĩa xã hội; tỏ rõ thái độ của các ông đối với các quan điểm của chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán và đặt nền móng sách lược của những người cộng sản đối với các đảng đối lập khác.

Về mặt thực tiễn, Tuyên ngôn có nhiệm vụ trình bày công khai mục đích, nhiệm vụ, những biện pháp cách mạng của những người cộng sản nhằm lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập nền thống trị của giai cấp vô sản, tiến hành cải tạo xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của cộng sản chủ nghĩa.

Mục đích cuối cùng của những người cộng sản là thực hiện chủ nghĩa cộng sản. Nhưng “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”(5), là “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”. Bước thứ hai, giai cấp vô sản và nhân dân lao động sử dụng chính quyền nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt, trong đó xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu, đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất là nhiệm vụ cốt lõi. Tuy nhiên, các tác giả của Tuyên ngôn cũng lưu ý rằng, những biện pháp để giải quyết những nhiệm vụ của giai đoạn này cũng sẽ rất khác nhau trong những nước khác nhau.

Sau khi nêu ra 10 biện pháp mà theo C.Mác và Ph.Ăngghen, sẽ có thể được áp dụng khá phổ biến ở những nước tiên tiến nhất, hai ông đã khái quát những đặc trưng chính yếu nhất của xã hội cộng sản tương lai: chế độ tư hữu và giai cấp sẽ bị xóa bỏ, nhà nước không tồn tại với tư cách là công cụ thống trị giai cấp; con người được phát triển tự do, toàn diện trong mối quan hệ hài hòa với xã hội. Các ông đã chỉ ra rằng: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(6). Tuyên ngôn kết thúc bằng khẩu hiệu bất hủ: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”.

Với tất cả những điều được coi là nguyên lý đó, Tuyên ngôn xứng đáng được thừa nhận là văn kiện đầu tiên về chủ nghĩa nhân đạo cao cả nhất, nhân đạo xã hội chủ nghĩa(7). Nó được viết ra vì người lao động, vì sự nghiệp giải phóng người lao động, vì sự phát triển toàn diện và tự do của con người. Lịch sử hiếm thấy một tác phẩm nào lại có ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình phát triển của cách mạng thế giới như Tuyên ngôn của Đảng cộng sản. V.I.Lênin khẳng định: “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách: tinh thần của nó đến bây giờ vẫn cỗ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và chiến đấu trong thế giới văn minh”(8).

2. Sự vận dụng sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc vào Việt Nam

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là một người đã nghiên cứu, tiếp thụ tư tưởng của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học và V.I.Lênin, rồi vận dụng và phát triển sáng tạo vào thực tiễn xã hội Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến. Người đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giải phóng giai cấp vô sản với giải phóng dân tộc, vạch ra đường lối giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.

Cách mạng Việt Nam sang những năm 20 của thế kỷ XX, sau thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp theo lập trường giai cấp phong kiến đã lâm vào bế tắc về đường lối. Những chí sĩ cách mạng của lớp trước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… cũng bế tắc trong tìm đường cứu nước. Lớp thanh niên trẻ mới xuất dương, có chí khí, nhiệt huyết, mất tin tưởng vào lớp già, muốn đi tìm một con đường cứu nước mới, nhưng lúng túng chưa tìm lối ra, đành đi vào con đường manh động.

Là người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận thức được rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(9). Sau khi tìm được “cẩm nang” thần kỳ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, Người quyết tâm trở về tổ chức, huấn luyện quần chúng vào cuộc đấu tranh mới. Tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, mà nòng cốt là Thanh niên cộng sản đoàn, đã ra đời trong hoàn cảnh đó.

Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là đoàn thể cách mạng đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức một cách chặt chẽ, có hệ thống từ trung ương đến cơ sở, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, có mục đích tôn chỉ khác hẳn các tổ chức trước đó: trước làm cách mạng quốc gia, giành độc lập dân tộc sau làm cách mạng thế giới, đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, thực hiện chủ nghĩa cộng sản. Hội đã giáo dục, huấn luyện cho học viên của mình về chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Hội chưa phải là tổ chức cộng sản, nhưng cũng không phải là một đoàn thể quốc gia của những người trí thức tiểu tư sản có xu hướng dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Nó là một tổ chức quá độ, tiền mácxít(10). Nói như Nguyễn Ái Quốc, từ quả trứng Thanh niên đã nở ra con chim cộng sản, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Có lý luận tiền phong hướng dẫn, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách tích cực tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng và tổ chức ra Đảng Cộng sản Việt Nam làm hạt nhân lãnh đạo, dẫn dắt quần chúng đấu tranh lật đổ ách đô hộ của thực dân xâm lược Pháp kéo dài gần một trăm năm. Cách mạng Tháng Tám thành công lập nên một Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á (02-9-1945), kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược thắng lợi (1945 - 1975) mang lại hòa bình, thống nhất đất nước, hoàn thành độc dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Đảng Cộng sản do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết đúng đắn quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Đảng đã lãnh đạo cộng đồng dân tộc đứng lên đấu tranh giành quyền làm chủ vận mệnh của mình và đưa cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa vào quỹ đạo của cách mạng vô sản thế giới.

Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra nguyên nhân sâu xa căn bản của áp bức dân tộc là chế độ người bóc lột người, áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản của áp bức dân tộc. Trong Tuyên ngôn, C. Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ”(11). Rõ ràng, không thể giải quyết được vấn đề dân tộc nếu không tiến hành đấu tranh giai cấp để thủ tiêu chế độ người bóc lột người, nếu không gắn đấu tranh giải phóng dân tộc với đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội của giai cấp vô sản và tất cả những người bị áp bức thì tình trạng áp bức dân tộc và áp bức giai cấp chưa được giải quyết triệt để. Tuy nhấn mạnh vai trò của nhân tố giai cấp, nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin cũng hoàn toàn xa lạ với quan điểm coi thường nhân tố dân tộc trong sự phát triển lịch sử. Trong Tuyên ngôn, C. Mác và Ph. Awngghen đã xác định giai cấp vô sản phải đại biểu cho phong trào dân tộc, tự mình trở thành dân tộc.

Khi nói cách mạng vô sản là con đường cứu nước và giải phóng dân tộc, ở đây không phải là sự sắp đặt chủ quan tùy ý mà là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa khách quan với chủ quan. Nó là một sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải phóng hoàn toàn mới, khác hẳn về chất so với lãnh tụ của phong trào yêu nước đó ở Việt Nam. Mấu chốt là vấn đề dân tộc bao giờ cũng gắn liền với giai cấp.

Thật vậy, nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776), Pháp (1789), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu “tự do”, “bình đẳng”, nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyễn Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi, đến chốn. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng tháng Mười Nga, đến với chủ nghĩa Lênin, như một tất yếu lịch sử(12). Đặc biệt sau khi đọc sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin, Người đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(13).

Như vậy, cuộc cách mạng mà nhân dân ta cần tiến hành không thể là cách mạng tư sản kiểu cũ mà phải là một cuộc “cách mạng đến nơi”, nghĩa là cách mạng triệt để, cuộc cách mạng lấy công nông làm gốc, một cuộc cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người viết: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc(14). Và Trong tất cả các giai đoạn cách mạng có một bản chất chung không thay đổi: chính quyền nhà nước thuộc về đa số dân chúng, chính quyền của công nhân, nông dân và tất cả những ai là “bầu bạn” của công nông. Chính quyền ta khác về bản chất với nhà nước “dân chủ” chung chung mà thực chất là quyền lực trong tay “một số ít người”.

Vì vậy, theo Nguyễn Ái Quốc, dân tộc từ đây gắn liền với giai cấp vô sản, do giai cấp vô sản đại biểu. Ngày nay, để làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình giai cấp công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc để đưa cách mạng tiến lên, chỉ có giai cấp vô sản với tư cách là giai cấp đứng trung tâm của thời đại mới, là giai cấp duy nhất có khả năng giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, ngọn cờ độc lập và chủ quyền dân tộc, ngọn cờ tiến bộ và phồn vinh của dân tộc.

Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng và nhằm phát huy sức mạnh của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh chủ trương giải quyết hài hòa từng bước quyền lợi các giai cấp trong nội bộ dân tộc, dù đó là giai cấp đối kháng. Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo, có ghi rõ: “tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc”(15). Về sách lược, Người chủ trương: “phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”.

Vận dụng 10 biện pháp cách mạng trong Tuyên ngôn, trong Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng, Hồ Chí Minh nêu ra 10 nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam(16):

1- Đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và giai cấp tư sản phản cách mạng.

2- Làm cho nước An Nam được độc lập.

3- Thành lập chính phủ công nông binh.

4- Tịch thu tất cả các nhà băng và cơ sở sản xuất của đế quốc trao cho chính phủ công nông binh.

5- Quốc hữu hóa toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách mạng An Nam chia cho nông dân nghèo.

6- Thực hiện ngày làm 8 giờ.

7- Hủy bỏ mọi thứ quốc trái và thuế thân, miễn các thứ thuế cho nông dân nghèo.

8- Đem lại mọi quyền tự do cho nhân dân.

9- Thực hành giáo dục toàn dân.

10- Thực hiện nam nữ bình quyền

Theo Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội không chỉ là nguyên tắc mà còn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối cách mạng Việt Nam. Đó là con đường phát triển xã hội có tính chất rút ngắn biện chứng mang tính lịch sử - cụ thể và hợp quy luật, hiện thân sinh động sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh - hiện thực tất yếu và sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn Việt Nam. Đó cũng chính là con đường nhỏ trong con đường lớn toàn nhân loại tất yếu tiến lên chủ nghĩa xã hội, một bộ phận, một biểu hiện cụ thể của xu thế phát triển tất yếu của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó. Ngay từ khi mới thành lập, trong Chính cương vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, đã khẳng định: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(17). Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh sự nghiệp đấu tranh giai phóng dân tộc gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức, bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại, và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Ở đây, cách mạng xã hội chủ nghĩa là kế tiếp ngay khi cách mạng dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Và, chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội và chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự. Đây là tư tưởng thấm đượm tinh thần Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.

Một trong những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Tháng Tám là sự vận dụng sáng tạo sách lược cách mạng trong Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể, thực tiễn Việt Nam. C.Mác và Ph.Ăngghen dự đoán: “lúc mà đấu tranh giai cấp tiến gần đến giờ quyết định thì quá trình tan rã của giai cấp thống trị, của toàn bộ xã hội cũ, mang một tính chất dữ dội và khốc liệt đến nỗi một bộ phận nhỏ giai cấp thống trị tách ra khỏi giai cấp này và đi theo giai cấp cách mạng, đi theo giai cấp đang nắm tương lai trong tay”(18). Vận dụng tư tưởng về thời cơ này của C.Mác và Ph.Ăngghen, Hồ Chí Minh đã thu hút những người vốn thuộc lực lượng đế quốc và tay sai nhưng có tư tưởng dân tộc ngả về phía cách mạng, tạo ra một cuộc cách mạng có thắng lợi nhanh, gọn, ít đổ máu.

Sau cách mạng Tháng Tám 1945, giai cấp công nhân Việt Nam đã trở thành giai cấp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành đảng cầm quyền. Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph. Ăngghen nhấn mạnh: bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, giành lấy dân chủ còn có nghĩa là giai cấp vô sản lãnh đạo Nhà nước phải chăm lo mọi mặt của đời sống nhân dân. Người đề ra chủ trương: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế…. của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là không ngừng phát triển sản xuất để nâng cao mãi đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”(19).

Với tư tưởng cách mạng chiến lược: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh, được soi đường bởi Tuyên ngôn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng làm nên sự nghiệp mà 170 năm trước đây, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, “khôi phục lại độc lập và thống nhất cho từng dân tộc” và “cải tạo xã hội về căn bản” để đưa đất nước đi đến dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh./.

------------------------------------------------------

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.21, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 522.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 523.

(3) V.I.Lênin, Toàn tập, t.26, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 57.

(4) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 610.

(5) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 626.

(6) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 628.

(7) Xem: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Sống mãi Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 37.

(8) V.I.Lênin, Toàn tập, t.2, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.10.

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2011, tr.30.

(10) Xem: Viện Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu (1924 - 1927), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.88
(11) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 624.

(12) Xem: Nguyễn Duy Quý (2005), Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh ,T/c Triết học, số 5, tr.11,12.

(13) Hồ Chí Minh, Toàn tập: t. 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.563.

(14) Hồ Chí Minh, Toàn tập: t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.292.

(15) Hồ Chí Minh, Toàn tập: t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.1.

(16) Hồ Chí Minh, Toàn tập: t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.22.

(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.1.

(18) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 609 - 610.

(19) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 372.