Về công tác giám sát của Quốc hội

Nguyễn Văn Hiện TS, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội
19:11, ngày 29-08-2013
TCCS - Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thời gian qua đã phát huy vai trò quan trọng, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian tới, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và triển khai thực hiện Hiến pháp (sau khi được sửa đổi), hoạt động giám sát của Quốc hội cần tiếp tục được đổi mới và tăng cường nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả.

Thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội là nhằm bảo đảm cho các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đồng thời, thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội nắm bắt được tình hình triển khai thi hành văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, từ đó kịp thời phát hiện những vướng mắc để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bao gồm việc bổ sung, hoàn thiện những quy định hiện hành, bãi bỏ những quy định không còn phù hợp, quyết định những lĩnh vực cần xây dựng mới văn bản,... Toàn bộ hoạt động giám sát của Quốc hội đều hướng đến việc bảo đảm cho các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội được thi hành nghiêm chỉnh, đồng thời xem xét trách nhiệm pháp lý của đối tượng chịu sự giám sát nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện và xử lý theo quy định những vi phạm có thể xảy ra. Hoạt động giám sát của Quốc hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một phương thức thể hiện quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội và góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật. 

Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội trong thời gian qua 

Về quy định của pháp luật: Điều 83 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã quy định quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành một số đạo luật bảo đảm cơ sở pháp lý để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao, như Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2007), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003. Việc ban hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 đã đánh dấu bước đổi mới quan trọng của Quốc hội - lần đầu tiên Quốc hội có một đạo luật quy định riêng về hoạt động giám sát của Quốc hội, thẩm quyền và trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong hoạt động giám sát; trình tự và thủ tục thực hiện các hoạt động giám sát; quyền và trách nhiệm của cơ quan, cá nhân chịu sự giám sát;... Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội đã góp phần quan trọng tăng cường hiệu lực pháp lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động giám sát, góp phần bảo đảm cho các hoạt động giám sát có được sự đồng bộ, thống nhất, nền nếp. Hệ thống pháp luật về quyền giám sát của Quốc hội đã thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, thể hiện địa vị pháp lý của Quốc hội, pháp luật quy định về quyền giám sát của Quốc hội ngày càng được hoàn thiện hơn. 

Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động, các quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội cũng đã bộc lộ một số vướng mắc nhất định, như một số thẩm quyền giám sát của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội được quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội nhưng lại chưa được quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội (quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, quyền cử thành viên để xem xét, xác minh); Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội cũng cần quy định cụ thể hơn về công tác chỉ đạo, điều hòa, phối hợp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, đồng thời quy định cụ thể hơn về cơ chế và trách nhiệm tiếp thu những kết luận, giải quyết các kiến nghị sau giám sát. 

Về thực tiễn hoạt động giám sát: Trong thời gian qua, Quốc hội đã không ngừng quan tâm đổi mới công tác giám sát nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động giám sát. Hằng năm, Quốc hội đều thông qua nghị quyết về chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội. Nội dung giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội tập trung vào những vấn đề bức xúc của thực tiễn, bao quát nhiều lĩnh vực, từ kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, đến văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, hoạt động của các cơ quan tư pháp,... 

Việc Quốc hội xem xét báo cáo công tác của các cơ quan và cá nhân theo quy định được thực hiện nghiêm túc, đúng pháp luật. Báo cáo thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội được chuẩn bị công phu, sâu sắc, thể hiện được ý kiến của Hội đồng, các ủy ban. Khi thảo luận về các báo cáo, đại biểu Quốc hội đã phản ánh kịp thời những ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của cử tri, đánh giá những mặt được, nêu lên những thiếu sót, khuyết điểm và cùng trao đổi để đề ra các giải pháp góp phần khắc phục khó khăn, hạn chế, thiếu sót. Bên cạnh hoạt động giám sát tối cao qua việc xem xét báo cáo của các cơ quan, cá nhân theo quy định, Quốc hội cũng đã quan tâm giám sát tối cao theo chuyên đề. Hoạt động giám sát theo chuyên đề, với nội dung giám sát chuyên sâu, đã giúp cho việc hoạch định những chính sách vĩ mô và quyết định những vấn đề quan trọng trong những lĩnh vực nhất định sát hợp hơn với thực tiễn, với yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Thông qua hoạt động giám sát chuyên đề, Quốc hội kiểm nghiệm, đánh giá những quy định của pháp luật, bổ sung cho việc thực hiện chức năng lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng trong những lĩnh vực đó. Nhiều nội dung giám sát được Quốc hội thể hiện ý chí bằng việc ban hành nghị quyết, trong đó nêu rõ yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể mà đối tượng chịu sự giám sát và các cơ quan liên quan phải tập trung thực hiện. 

Trong các hình thức giám sát, chất vấn được coi là một công cụ giám sát mạnh và có hiệu quả của Quốc hội, đại biểu Quốc hội. Trong những năm gần đây, hoạt động chất vấn của Quốc hội luôn được đổi mới để nâng cao chất lượng, nhất là đổi mới cách thức tiến hành phiên chất vấn, như trả lời chất vấn theo nhóm vấn đề, hạn chế đến mức thấp nhất thời gian trả lời bằng văn bản,... Số lượng và chất lượng các câu hỏi chất vấn của đại biểu Quốc hội ngày càng được nâng cao. Việc tổng hợp kiến nghị của cử tri, theo dõi việc thực hiện lời hứa của chủ thể trả lời chất vấn,... được thực hiện một cách thường xuyên, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn. Thực tế cho thấy, hoạt động chất vấn thời gian qua luôn thu hút được sự quan tâm, theo dõi của cử tri, góp phần tích cực giải quyết những vấn đề bức xúc của cuộc sống đặt ra, có tác động thiết thực, thúc đẩy các cơ quan nhà nước khắc phục những thiếu sót, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Những kết quả đó góp phần vào việc tăng cường chất lượng, hiệu quả của công tác giám sát của Quốc hội. 

Giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao là một trong những hoạt động giám sát quan trọng của Quốc hội. Đây là công việc được thực hiện thường xuyên, liên tục, nhằm bảo đảm các văn bản pháp luật được ban hành kịp thời, phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; qua đó, phát hiện những nội dung chưa rõ ràng, áp dụng chưa thống nhất để kịp thời xử lý. Hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật bên cạnh việc giám sát thường xuyên cũng được Quốc hội kết hợp trong quá trình giám sát chuyên đề. Việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật đã góp phần tích cực vào việc bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật. 

Bên cạnh hoạt động giám sát của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội cũng được tiến hành tích cực, chủ động, có nhiều chuyển biến tích cực. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội đã tiến hành giám sát khá toàn diện các lĩnh vực; quan tâm đổi mới nội dung và hình thức giám sát, có sự kết hợp hài hòa giữa giám sát chuyên đề và giám sát thường xuyên. Đặc biệt, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổ chức chất vấn tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bên cạnh đó, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội đã tổ chức hoạt động giải trình tại Hội đồng, các ủy ban của Quốc hội. Đây được coi là điểm mới trong phương thức tổ chức hoạt động của các cơ quan của Quốc hội và đã phát huy tác dụng tích cực. Các đoàn đại biểu Quốc hội cũng đã phối hợp tốt trong việc giám sát chuyên đề theo chương trình giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội. Công tác phối hợp với các cơ quan hữu quan trong hoạt động giám sát được tăng cường hơn. Các đại biểu Quốc hội đã tích cực tham gia hoạt động giám sát, như tham gia hoạt động của các đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội. Nhìn chung, các đề xuất, kiến nghị trong báo cáo giám sát bảo đảm tính cụ thể, khả thi, tạo được sự đồng thuận cao và có tác dụng tích cực, góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật. 

Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội cũng cần quy định cụ thể hơn công tác chỉ đạo, điều hòa, phối hợp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội; hình thức, trình tự, thủ tục, hệ quả pháp lý của hoạt động giám sát chuyên đề của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; cơ chế và trách nhiệm tiếp thu những kết luận, giải quyết các kiến nghị sau giám sát;…
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động giám sát của Quốc hội cũng còn có những hạn chế nhất định. Một số báo cáo gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội còn chậm, chưa bảo đảm đúng thời hạn do pháp luật quy định nên thời gian để đại biểu Quốc hội nghiên cứu, xem xét kỹ các báo cáo còn ít. Việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật trong một số trường hợp vẫn chưa được quan tâm đúng mức, có lúc còn chưa đi sâu vào nội dung cụ thể của từng văn bản, chủ yếu mới tập trung vào tiến độ ban hành, số lượng văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết. Các kết luận giám sát còn phụ thuộc nhiều vào các báo cáo, giải trình của các cơ quan (đối tượng) được giám sát; việc tự xác minh, thu thập thông tin, tài liệu của các đoàn giám sát còn hạn chế. Chính vì vậy, một số vấn đề trong kết luận giám sát chưa phản ánh đầy đủ, khách quan, toàn diện bản chất của sự việc, đối tượng giám sát. Một số kiến nghị của đoàn giám sát còn chung chung, chưa cụ thể, chưa xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan sau giám sát. Việc theo dõi, đôn đốc thực hiện nghị quyết, kết luận, kiến nghị sau giám sát chưa được thường xuyên nên hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội còn chưa được như mong muốn. 

Một số vấn đề rút ra qua hoạt động giám sát của Quốc hội 

1- Các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội cần có sự cụ thể, rõ ràng, nhất là các quy định về thẩm quyền, nội dung, phạm vi giám sát, trình tự, thủ tục thực hiện đối với từng hình thức giám sát. Các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội là cơ sở pháp lý của hoạt động giám sát của Quốc hội; cơ sở pháp lý càng chặt chẽ thì hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát càng cao. 

2- Hoạt động giám sát của Quốc hội cần được thực hiện thường xuyên, liên tục theo nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Trong quá trình giám sát cần tăng cường hơn nữa việc đoàn giám sát tự mình thu thập thông tin, tài liệu (ngoài các tài liệu do cơ quan chịu sự giám sát cung cấp) nhằm bảo đảm cho kết luận giám sát có được sự khách quan, toàn diện. Đồng thời, phải lưu ý, các kiến nghị sau giám sát cần có sự cụ thể, khả thi, xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể phải thực hiện. Kiến nghị qua hoạt động giám sát của Quốc hội cần hướng tới việc hoàn thiện chính sách, pháp luật, đồng thời, sau giám sát cần thực hiện tốt việc theo dõi, đôn đốc để các kiến nghị được thực hiện trên thực tế.

3- Hoạt động giám sát của Quốc hội bao gồm nhiều chủ thể có thẩm quyền giám sát (Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội). Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của Quốc hội cũng liên quan đến nhiều cơ quan nhà nước khác nhau. Vì vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội cần có sự điều hòa, phối hợp chặt chẽ, nhất là cần tăng cường và thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp, như phối hợp giữa các chủ thể giám sát, các hình thức giám sát, phối hợp theo quy định giữa chủ thể giám sát với đối tượng giám sát. 

Một số kiến nghị nhằm tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội 

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội nói chung và hoạt động giám sát của Quốc hội nói riêng. Trong quá trình thực hiện hoạt động giám sát, Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội cần quán triệt nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng và các quy định của pháp luật có liên quan. Pháp luật là sự thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng. Thực chất, hoạt động giám sát của Quốc hội là giám sát thực thi chủ trương, đường lối của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật. Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Bộ Chính trị có thể nghiên cứu ban hành nghị quyết riêng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội, trong đó có hoạt động giám sát của Quốc hội. 

Hai là, hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Trong điều kiện Quốc hội đang tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), nghiên cứu sửa đổi Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2007), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003, chúng ta cần tổng kết toàn diện việc thực hiện Luật Hoạt động giám sát trong mười năm qua để từ đó rút ra những vướng mắc trong quá trình thi hành Luật này, đề xuất sửa đổi những quy định không còn phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội cần bổ sung các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện một số thẩm quyền giám sát của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội được quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội, như quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, quyền cử thành viên để xem xét, xác minh. 

Ba là, về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn. Chất vấn và trả lời chất vấn là một hình thức giám sát của Quốc hội. Quốc hội cần tiếp tục việc ban hành nghị quyết về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn để tăng cường hiệu lực pháp lý của hoạt động giám sát này. Bên cạnh đó, cần tiếp tục triển khai hoạt động chất vấn tại các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Quy định cụ thể, chi tiết hơn trong luật về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn nhằm cụ thể hóa quyền, nghĩa vụ và trình tự, thủ tục trong hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, như quyền và nghĩa vụ của đại biểu Quốc hội khi thực hiện chất vấn, của các chủ thể trả lời chất vấn; các trình tự, thủ tục từ bước chuẩn bị chất vấn, trả lời chất vấn đến sau phiên chất vấn tại kỳ họp Quốc hội; hoạt động chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội, trong đó có việc xác định vấn đề cần chất vấn, chủ thể trả lời chất vấn, trách nhiệm của chủ thể trả lời chất vấn để làm căn cứ cho việc giám sát thực hiện lời hứa. 

Bốn là, về giám sát chuyên đề. Hoạt động giám sát chuyên đề của Quốc hội nên được đổi mới theo hướng trong nghị quyết về chương trình giám sát hằng năm của Quốc hội, bên cạnh việc quy định các nội dung giám sát chuyên đề trong năm của Quốc hội, cũng cần quy định các nội dung giám sát chuyên đề trong năm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội để tăng cường hiệu lực pháp lý trong hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội (nội dung giám sát chuyên đề của các cơ quan của Quốc hội được xác định trong nghị quyết của Quốc hội), bảo đảm tính tập trung, thống nhất và thuận lợi trong việc điều hoà, phối hợp hoạt động giám sát của Quốc hội. 

Năm là, về giám sát văn bản quy phạm pháp luật. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cần tập trung giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm sự phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Quốc hội có thể nghiên cứu quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và hình thức giám sát văn bản quy phạm pháp luật tại mỗi kỳ họp Quốc hội để Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội tăng cường giám sát văn bản quy phạm pháp luật theo các lĩnh vực phụ trách. 

Sáu là, về ban hành nghị quyết sau giám sát. Nhằm tăng cường hiệu lực hoạt động giám sát của Quốc hội, khi tiến hành giám sát, Quốc hội cần thể hiện ý chí của mình bằng việc ban hành nghị quyết, trong đó bao gồm việc đánh giá về kết quả giám sát, trách nhiệm của các cơ quan liên quan, quy định cụ thể việc theo dõi, đôn đốc thực hiện nghị quyết. Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu quy định cụ thể việc Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội ban hành nghị quyết sau khi Hội đồng, các ủy ban tiến hành hoạt động giám sát thuộc lĩnh vực phụ trách. 

Bảy là, về hoạt động giải trình tại Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội. Trong thời gian qua, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội đã tiến hành một số phiên giải trình đối với người đứng đầu cơ quan nhà nước. Đây được coi là một điểm mới quan trọng trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và bước đầu đã thu được kết quả tích cực, được dư luận và cử tri đánh giá cao. Trong thời gian tới, hoạt động giải trình tại Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội cần được quy định cụ thể về nội dung, trình tự, thủ tục, hệ quả pháp lý,... và cần được tiến hành thường xuyên để trở thành một hình thức giám sát quan trọng của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội./.