TCCS- Nhật Bản là những quốc gia chiếm ưu thế về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trên thế giới, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX đã coi các ngành công nghiệp văn hóa là chiến lược mới trong điều chỉnh kết cấu ngành nghề của quốc gia trong thế kỷ XXI. Đặc biệt, Nhật Bản rất chú trọng thúc đẩy sáng tạo văn hóa, coi văn hóa là sức mạnh mềm quốc gia, là hạt nhân để phát triển kinh tế tri thức. Những kinh nghiệm từ Nhật Bản có giá trị tham khảo trong xây dựng và thực hiện chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng.

Vũ điệu Yosakoi của Nhật Bản luôn sôi động và thu hút rất đông người tham gia (Trong ảnh: Tái hiện màn múa Yosakoi truyền thống được tổ chức trong Ngày hội Văn hóa Nhật Bản tại Hà Nội _ Ảnh: Tư liệu)

Khảo sát thực tiễn chính sách Nhật Bản trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

Từ năm 2010, Nhật Bản đã xác định rõ công nghiệp giải trí là trụ cột, không chỉ là mũi nhọn của các ngành công nghiệp văn hóa, mà còn là trụ cột của cả nền kinh tế đất nước. Từ quan điểm, chủ trương này, Nhật Bản điều chỉnh chính sách theo các hướng:

Thứ nhất, các chính sách đều hướng vào kết hợp chặt chẽ sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, với các ngành kinh tế. Mỗi hoạt động đều nằm trong tổng thể phát triển đa ngành, nhiều ngành cùng tham gia phối hợp và cùng được hưởng lợi.

Thứ hai, thúc đẩy chính sách phối hợp ngành - địa phương, như quảng bá văn hóa - giáo dục, văn hóa - du lịch luôn có sự tham gia đồng hành của các cơ quan văn hóa, các nhà trường, các địa phương…

Thứ ba, chú trọng chính sách đãi ngộ, hài hòa lợi ích để phát huy tối đa vai trò chủ thể các cá nhân: người dân bản địa được phát huy, được chia sẻ lợi ích hài hòa để đóng góp trực tiếp vào quá trình tạo ra các sản phẩm, dịch vụ văn hóa; vai trò cá nhân du khách, nhất là khách du lịch đến từ ngoài nước được chú trọng, được cung cấp sản phẩm, dịch vụ phù hợp sở thích, nhu cầu, như mô hình Du lịch Amine (Hoạt hình), Du lịch Manga (Truyện tranh), Du lịch Cosplay (khách du lịch mặc trang phục như nhân vật trong truyện tranh, phim, các cuốn tiểu thuyết, video games nổi tiếng)…

Thứ tư, có chính sách đặc biệt đối với một số lĩnh vực mũi nhọn. Để hiện thực hóa chính sách, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cấp, các ngành, địa phương, Nhật Bản chủ trương thành lập những trung tâm liên bộ. Để nâng cao chất lượng tham vấn chính sách, Chính phủ ủng hộ việc thành lập các cơ sở phục vụ cho chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, thậm chí có những ủy ban, viện chính sách chỉ chuyên báo cáo thúc đẩy xuất khẩu thương mại các chương trình truyền hình, những viện chính sách, chuyên nghiên cứu các chính sách thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp văn hóa ra nước ngoài. Nhìn chung, đối với Nhật Bản, chính sách kết hợp văn hóa với kinh tế đã đem lại những kết quả quan trọng.

Giá trị tham chiếu cho Hà Nội

Ở Việt Nam, các ngành công nghiệp văn hóa đã đi sau một bước so với thế giới. Trong thập niên 90 của thế kỷ XX, khi các ngành công nghiệp văn hóa của nhiều nước đã có những thành tựu lớn, đóng góp lớn cho nền kinh tế của nhiều quốc gia đó trở thành ngành mũi nhọn, là động lực cho nhiều ngành kinh tế khác phát triển, thì Việt Nam mới bắt đầu chính thức đề cập đến vị trí, vai trò, dần xác định vị thế, xây dựng chính sách để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Và cho đến nay, sau hơn 20 năm, một số lĩnh vực đã có những thành quả nhất định, song các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam vẫn chưa thực sự có một chỗ đứng vững chắc trên “bản đồ” công nghiệp văn hóa thế giới.

Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998), Đảng ta đã nói đến kinh tế trong văn hóa và “văn hóa trong kinh tế”. Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (năm 2004), Đảng ta nhận thức sâu thêm về phát triển gắn kết kinh tế và văn hóa. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (năm 2014), khi lần đầu tiên đề cập trực tiếp đến các ngành công nghiệp văn hóa, Đảng ta đã xác định: “xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam”(1) ra thế giới; “phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa”(2). Từ những chủ trương này, các doanh nghiệp văn hóa bắt đầu tham gia mạnh mẽ hơn vào quá trình sản xuất, kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ văn hóa; các sản phẩm, dịch vụ văn hóa bắt đầu lưu thông và gia tăng cạnh tranh trên thị trường; thị trường các sản phẩm, dịch vụ văn hóa dần phát triển theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Năm 2016, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã không chỉ cho thấy quyết tâm của Chính phủ mà còn thể hiện rõ những định hướng tổng quát, toàn diện đối với phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, đó là: Phát triển đa dạng, đồng bộ và hiện đại tất cả các ngành công nghiệp văn hóa một cách bền vững, ứng dụng công nghệ tiên tiến; các sản phẩm, dịch vụ văn hóa có thương hiệu uy tín trong khu vực và quốc tế, đạt tiêu chuẩn của các nước phát triển và tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị sản phẩm, dịch vụ văn hóa toàn cầu. Thể chế hóa chủ trương này, nhiều bộ luật liên quan đến các ngành công nghiệp văn hóa, như: Luật Xuất bản, Luật Điện ảnh, Luật Quảng cáo, Luật Sở hữu trí tuệ… được Quốc hội thông qua, có những luật đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Có thể thấy, tuy đi sau, nhưng Việt Nam đã có những chủ trương, chính sách kịp thời mở ra những điều kiện mới tạo môi trường cho các ngành công nghiệp văn hóa phát triển; tuy sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa chưa tạo thành điểm nhấn rõ nét đóng góp vào nền kinh tế như nhiều nước trên thế giới, nhưng chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam đã nhanh chóng hòa vào dòng chảy chung, góp phần tạo cơ sở pháp lý quan trọng, tạo động lực để thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa phát triển.

Từ những cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng này, từ tham khảo chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Nhật Bản, đề xuất một số giá trị tham khảo cho Hà Nội trên hành trình mở rộng hướng phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Thủ đô.

Giá trị đầu tiên: Phải nâng cao nhận thức của cấp ủy và chính quyền các cấp về vai trò, chức năng và nhiệm vụ của phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Trong quá trình chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trong bối cảnh tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các ngành công nghiệp văn hóa cần được nhìn nhận như một ngành văn hóa - kinh tế tổng hợp, có chức năng vừa đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân dân, vừa trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, một động lực và nguồn lực nội sinh quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa là đầu tư phát triển tổng hợp của văn hóa và kinh tế, tạo sự phát triển năng động của đất nước trong thời kỳ hội nhập. Các yếu tố cơ bản như sự sáng tạo, ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, chú ý hiệu quả kinh tế và xã hội của sản phẩm của các ngành công nghiệp văn hóa được chú trọng. Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau.

Một trong những mục tiêu Hà Nội xác định cần thực hiện là: Hoàn thiện cơ chế thị trường trong lĩnh vực văn hóa gắn với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng, lợi thế. Trong đó nhấn mạnh ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa, một số sản phẩm văn hóa chủ lực, có tiềm năng lợi thế như điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, du lịch văn hóa; thúc đẩy phát triển các loại hình nghệ thuật đương đại, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp văn hóa, rà soát, điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có lợi thế, phù hợp với yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới.

Giá trị thứ hai: Trong quá trình triển khai Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (năm 2016), Thủ đô Hà Nội trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã triển khai thực hiện nghiêm túc Chiến lược tại địa phương, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đây là cơ sở và là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến những thành tựu trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Thủ đô Hà Nội trong thời gian vừa qua. Thành ủy Hà Nội đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU, của Thành ủy, về phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn Thủ đô giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045. Đây là những cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để phát triển công nghiệp văn hóa ở trung tâm văn hóa lớn nhất đất nước trong thời gian tới.

Giá trị thứ ba: Để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trên địa bàn, Hà Nội cần căn cứ vào đặc điểm dân cư, tình hình địa lý sinh thái nhân văn, truyền thống văn hóa – lịch sử của địa phương để xác định điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ và thách thức, lựa chọn đúng trọng tâm, trọng điểm các ngành công nghiệp văn hóa phù hợp để phát huy năng lực cạnh tranh trên thị trường sản phẩm văn hóa trên phạm vi cả nước, khu vực và quốc tế. Trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tính đa dạng các sản phẩm của ngành công nghiệp văn hóa ở mỗi địa phương sẽ là lợi thế để cạnh tranh trong hội nhập. Mỗi địa phương cần có tầm nhìn toàn cầu để thực hiện hành động của mình. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu, điều tra cơ bản, xác định các nguồn lực văn hóa của địa phương, bao gồm các di sản văn hóa vật thể, di sản văn hóa phi vật thể, các đặc điểm và lợi thế về dân cư, về cảnh quan môi trường, tài nguyên thiên nhiên… là những căn cứ quan trọng để xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Cần xác định rõ các trật tự ưu tiên để đầu tư phát triển, tránh phân tán, dàn trải; tập trung vào chất lượng của các sản phẩm của công nghiệp văn hóa. Mỗi địa phương cần xác định rõ sản phẩm chủ lực của địa phương để đầu tư tập trung, trên cơ sở đó khuyến khích các thành phần kinh tế khác nhau tham gia đầu tư phát triển các sản phẩm công nghiệp văn hóa phù hợp với sở trường, năng lực của địa phương. Cần tránh tình trạng sao chép, rập khuôn, mà cần phát huy năng lực sáng tạo độc đáo, riêng biệt, thể hiện được tính đa dạng, bản sắc riêng biệt trong cạnh tranh trên thị trường sản phẩm công nghiệp văn hóa.

Giá trị thứ tư:  Để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa cần phải đặc biệt quan tâm đến xây dựng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở mỗi địa phương. Sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Thủ đô Hà Nội vừa qua cho thấy những hạn chế, yếu kém, bất cập về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực khác nhau của công nghiệp văn hóa, như du lịch văn hóa, điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật; quảng cáo, triển lãm, mỹ thuật, thiết kế sáng tạo, thời trang… là lực cản lớn đối với phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Công tác đào tạo về kỹ thuật, về kinh tế trong công nghiệp văn hóa chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, tập trung đổi mới căn bản, toàn diện về công tác đào tạo nguồn nhân lực để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trong công tác đào tạo nguồn nhân lực này là một yêu cầu rất cơ bản và cấp bách hiện nay.

Giá trị thứ năm: Hà Nội cần xây dựng kế hoạch phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trên cơ sở chính sách thu hút các tài năng trên lĩnh vực này. Đồng thời, cũng tăng cường mở rộng giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong nước và quốc tế để chia sẻ thông tin và kinh nghiệm, khơi dậy khát vọng phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở địa phương trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Giá trị thứ sáu: Hà Nội cần đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trọng điểm, như chú trọng đầu tư vào hệ thống giao thông, nâng cấp và hoàn thiện hệ thống các khu lưu trú, các khu vực vui chơi, giải trí, tham quan, nghỉ dưỡng, khai thác các sản phẩm đặc sắc của địa phương để quảng bá tới du khách; phát triển phần mềm và trò chơi điện tử, khu vực tập trung để “ươm mầm sáng tạo”, thu hút nguồn nhân lực và các tài năng tập trung vào các “vườn ươm sáng tạo công nghiệp văn hóa”; xây dựng các khu công nghiệp văn hóa, có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực này tập trung vào nâng cao năng lực sáng tạo, sản xuất, phổ biến các sản phẩm của các ngành công nghiệp văn hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm của công nghiệp văn hóa ra thế giới.

Nhà nước phải đóng vai trò là “bà đỡ” về cơ sở vật chất, kỹ thuật, phải quan tâm đến xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hoàn thiện cơ sở pháp lý để thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài vào phát triển các lĩnh vực này. Đặc biệt, đối với những loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống, như tuồng, chèo, cải lương, dân ca, dân vũ truyền thống… Nhà nước cần phải bảo trợ và khuyến khích sự hỗ trợ của các doanh nghiệp, các hiệp hội; cần có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đề cao vai trò của doanh nhân, doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực này. Đồng thời cũng chú trọng đến bảo đảm định hướng chính trị, tư tưởng, chức năng giáo dục, xây dựng lối sống, đạo đức, nhân cách trong quá trình phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, khắc phục xu hướng thiên về giải trí đơn thuần, không chú trọng đến giáo dục nhân cách, đạo đức.

--------------

(1) Văn kiện hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI,Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr. 48
(2) Văn kiện hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Tlđd, tr. 56