Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp dân vận trong giai đoạn hiện nay

TS Đặng Văn Khương
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
17:18, ngày 14-04-2024

TCCS - Phương pháp Hồ Chí Minh về dân vận luôn là sợi chỉ đỏ soi sáng, dẫn đường cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong sự nghiệp cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, việc vận dụng phương pháp dân vận Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần gương mẫu, tăng cường công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát, tập hợp quần chúng.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai thăm hỏi, chúc tết nhân dân biên giới xã Dân Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình_Ảnh: TTXVN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp dân vận

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kế thừa những giá trị tinh hoa trong truyền thống văn hóa dân tộc, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Theo Người, để quần chúng nhân dân thực hiện được vai trò cách mạng của mình thì cần thực hiện công tác dân vận. “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”(1); đồng thời, để thực hiện tốt công tác dân vận, mỗi chủ thể tiến hành công tác dân vận phải có phương pháp dân vận cụ thể, dân vận khéo, bởi “dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”(2). Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp dân vận biểu hiện ở những nội dung sau:

Thứ nhất, phương pháp dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “lấy dân làm gốc”.

Đây là nét đặc sắc tạo nên giá trị, cốt cách trong tư tưởng, đạo đức, phong cách dân vận Hồ Chí Minh. Bản chất phương pháp “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực hiện công tác dân vận là để làm lợi cho dân và để nhân dân hăng hái tham gia, ủng hộ sự nghiệp cách mạng. Phương pháp “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán với quan điểm nhân dân là chủ thể tổ chức và chủ thể hành động cách mạng; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều vì dân”(3). Người khẳng định, phương pháp “lấy dân làm gốc” là phải dựa chắc vào nhân dân, vì nhân dân luôn là chủ thể và gốc rễ của mọi thành công, cội nguồn sức mạnh làm nên mọi thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”(4).

Thứ hai, phương pháp phát huy dân chủ.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nước ta là nước dân chủ”(5). Dân là gốc của nước, là chủ thể của mọi hoạt động sáng tạo lịch sử, là chủ vận mệnh của nước nhà, do đó, dân chủ là tiền đề để thực hiện dân vận. Phát huy dân chủ trong công tác dân vận chi phối thái độ, hành vi, phương pháp ứng xử của người làm dân vận trong quan hệ với nhân dân và là điều kiện, nguyên tắc, mục đích của toàn bộ hoạt động dân vận. Thực chất phương pháp này là thực hành dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân mọi lúc, mọi nơi, trong mọi công việc và đều hướng đến dân, tất cả vì dân, nhân dân được tham gia xây dựng và kiến thiết nước nhà. Do vậy, trong nhận thức và thực hành công tác dân vận, các chủ thể tiến hành dân vận cần phát huy tốt vai trò của nhân dân, huy động mọi nguồn lực ở nơi dân, xây dựng môi trường dân chủ thực sự, bằng nhiều hình thức để nhân dân mạnh dạn đóng góp ý kiến, bày tỏ quan điểm của mình trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ ba, phương pháp tập hợp, tổ chức, lãnh đạo quần chúng.

Để cách mạng thắng lợi thực sự, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải có phương pháp tổ chức, tập hợp quần chúng nhân dân trong công tác dân vận. Đó là tổ chức sắp xếp thành hệ thống trình tự các công việc và phụ trách các bước công việc cụ thể, hợp lý, khoa học, mang lại hiệu quả cao. Bất kỳ việc to, việc nhỏ đều phải có kế hoạch; kiên quyết phê phán cách tổ chức công việc tùy tiện, làm lấy lệ, làm không đến nơi, đến chốn. Để phương pháp tổ chức thực sự khoa học thì người cán bộ phải “xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm việc ấy”(6). Đứng trước những vấn đề phát sinh của thực tiễn khách quan luôn vận động, biến đổi và nảy sinh những vấn đề khó lường, cán bộ phải đặt câu hỏi: “Vì sao có vấn đề này? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”(7), có nghĩa là phải nghiên cứu, tìm hiểu cụ thể, rõ ràng, đưa ra quyết định chính xác và tổ chức thực hiện đến nơi, đến chốn. Bởi vì, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bất cứ công việc gì, nhất là công tác dân vận: “Nếu không biết rõ tình hình mà đặt chính sách thì kết quả là “nồi vuông úp vung tròn”, không ăn khớp gì hết”(8). Do đó, không nên tùy tiện ra quyết định khi chưa nắm chắc thông tin, chưa có kế hoạch rõ ràng và như vậy sẽ không tổ chức, lãnh đạo được quần chúng. Đồng thời, Người nhấn mạnh, muốn tập hợp, tổ chức quần chúng thì phải thông qua phong trào yêu nước, phong trào hoạt động thực tiễn ở đơn vị.

Thứ tư, phương pháp kiểm tra, giám sát, rút kinh nghiệm.

Sự lãnh đạo của Đảng không chỉ là việc đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị cho đúng, mà điều quan trọng là phải tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra”(9). Do đó, kiểm tra, giám sát là một trong những yêu cầu hết sức quan trọng, có tính chất quyết định đến công tác dân vận, điều này “sơ sài” chắc chắn sẽ “hỏng việc”.

Để thực hiện tốt phương pháp kiểm tra, giám sát, trước hết phải xác định đối tượng, nhất là kiểm tra việc và kiểm tra người. Hai là, phương pháp kiểm tra có hiệu quả phải phụ thuộc rất lớn vào cán bộ phụ trách dân vận. Về điểm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Không thể gặp ai cũng phái đi kiểm tra. Người lãnh đạo phải tự mình làm việc kiểm tra, mới đủ kinh nghiệm và oai tín”(10). Đó là những cán bộ có đạo đức cách mạng, chuyên môn, nghiệp vụ phải vững vàng, đồng thời phải thật sự bản lĩnh, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân. Để nâng cao hiệu quả phương pháp kiểm tra, giám sát, cần phát huy vai trò của quần chúng, tạo điều kiện để nhân dân tham gia, hỗ trợ cán bộ trong thi hành nhiệm vụ, bởi vì: “Nhân dân có hàng chục triệu tai mắt. Việc gì họ cũng có thể nghe, có thể thấy, có thể biết”(11). Ba là, phương pháp kiểm tra, giám sát phải được tiến hành thường xuyên; phải có chương trình, kế hoạch cụ thể, phân công trách nhiệm rõ ràng, kiểm tra phải “mắt thấy, tai nghe”, thực hiện đúng phương châm minh bạch; dân chủ gắn liền với kỷ luật; đi đúng đường lối của quần chúng. Bốn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ trong công tác dân vận nhất thiết là phải: “Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”(12) và “Sau mỗi một việc cần phải rút kinh nghiệm”(13). Theo Người, kinh nghiệm đó bao gồm kinh nghiệm chung và riêng của từng cán bộ, địa phương, bao hàm cả kinh nghiệm thất bại và kinh nghiệm thành công. Rút kinh nghiệm rồi thì tổng kết lại và phổ biến những kinh nghiệm đó đến tất cả cán bộ, tất cả địa phương.

Thứ năm, phương pháp nêu gương.

Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “nêu gương” là một trong những phương pháp vận động nhân dân hữu hiệu và thiết thực. Để tập hợp được lực lượng, vận động được quần chúng, được quần chúng tin tưởng, sẵn sàng tham gia và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, thì người cán bộ làm công tác dân vận phải là những tấm gương sống: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(14).

Để thực hiện tốt phương pháp này, mỗi chủ thể cần phải tu dưỡng, rèn luyện thái độ ứng xử với dân, phải thực sự trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, điều đó sẽ giúp cho kết quả tuyên truyền lên gấp bội. Do vậy, Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận phải là kiểu mẫu về phẩm chất, đạo đức, lối sống trong mọi lúc, ở mọi nơi; nói phải đi đôi với làm, để quần chúng noi theo, tức là phải nêu gương bằng hành động thực tiễn, bằng việc làm cụ thể, làm mực thước cho quần chúng noi theo. Đó là tác phong quần chúng biểu hiện ở sự bám sát thực tiễn, gần gũi nhân dân, thực hành dân chủ, nói đi đôi với làm, lý luận gắn với thực tiễn, cán bộ dân vận phải là người có đạo đức hành động và nêu gương, bởi “nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được”(15).

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Trường Sa, Bộ đội Biên phòng tỉnh Khánh Hòa gắn kết, hỗ trợ ngư dân vươn khơi bám biển_Ảnh: TTXVN

Vận dụng trong giai đoạn hiện nay

Hiện nay, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch, phản động đang tìm mọi cách đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm chống phá cách mạng nước ta. Họ triệt để lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, những sơ hở, yếu kém trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội để xuyên tạc, vu khống, chống phá Đảng, Nhà nước nhằm gây mất niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và các cấp chính quyền; kích động, lôi kéo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm rạn nứt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang với nhân dân. Mặt khác, sự phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa cũng nảy sinh một số hạn chế, tiêu cực, như gia tăng khoảng cách giàu nghèo, lợi ích nhóm, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên… Tất cả những điều này gây ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của nhân dân đối với Đảng, với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp dân vận có ý nghĩa quan trọng. Do đó, trong nhận thức và hành động, các chủ thể tiến hành công tác dân vận cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc, tôn giáo và chính sách đại đoàn kết dân tộc… để dân biết, dân hiểu, để dân đề cao cảnh giác và tích cực tham gia đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân trong hoạt động thực tiễn, cần tăng cường giáo dục, quán triệt chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng minh chứng cụ thể từ những thắng lợi trong lịch sử dân tộc và trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước hiện nay; nhận thức rõ về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động chống phá trên lĩnh vực dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền nhằm xuyên tạc hệ tư tưởng của Đảng. Qua đó, góp phần quan trọng làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động.

Hai là, phát huy dân chủ trên mọi lĩnh vực, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vận dụng sáng tạo tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình thực tiễn hiện nay, cần xây dựng đường lối dân vận phù hợp, trên tinh thần phát huy dân chủ, tôn trọng nhân dân, quan tâm, chăm lo đến đời sống nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự thấm nhuần tư tưởng của Người, biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy mọi tiềm năng, sức mạnh ở nơi dân… Để nhân dân yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, cấp ủy, chính quyền các cấp khi ban hành các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, thực hiện các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng đời sống, phải hướng đến giải quyết nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, vì nhân dân, “đặt lợi ích nhân dân lên trên hết”; loại bỏ các yếu tố “tư duy nhiệm kỳ”, cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”; tổ chức các hình thức phù hợp để người dân tham gia các khâu của quá trình ban hành chủ trương, chính sách; tạo cơ chế cho người dân tham gia giám sát, phản biện, thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(16) để “ý Đảng” hợp với “lòng dân”. Phải thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là “bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến dân”. Để thực sự phát huy  dân chủ, trong giai đoạn hiện nay, từng tổ chức đảng, chính quyền, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải chấp hành và thực hiện có hiệu quả nội dung, cách thức thực hiện dân chủ ở cơ sở; quyền và nghĩa vụ của công dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở theo Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Thứ ba, phát huy tốt tinh thần tiên phong, gương mẫu trong nhận thức và hành động, trước hết là sự gương mẫu trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước của các tổ chức, cán bộ, đảng viên. Cần quan tâm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, chú trọng xây dựng đạo đức trong Đảng, văn hóa trong Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là gương sáng để nhân dân noi theo trên tinh thần “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp cao, người đứng đầu phải thường xuyên tiếp dân, lắng nghe tiếng nói của nhân dân và đối thoại với nhân dân, tăng cường trách nhiệm giải trình. Thực hiện tốt Quy định số 101-QĐ/TW, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, "Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị, "Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên; đặc biệt là Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, "Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương". Đặc biệt, nêu gương là luôn phải làm gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh những cán bộ, công chức, viên chức thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm trong giải quyết công việc đối với người dân; tạo điều kiện để người dân giám sát cán bộ, góp ý, đánh giá cán bộ cả ở nơi cư trú. Tiếp tục hoàn thiện và thực thi quy định về đạo đức công vụ trong công tác dân vận, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, thống nhất giữa ý chí và hành động, giữa cán bộ - công bộc của dân - với nhân dân trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động hiện nay.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả việc tập hợp, lãnh đạo quần chúng trong công tác dân vận. Trong giai đoạn hiện nay, công tác dân vận cần phải được nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện, cụ thể trên nhiều phương diện khác nhau, bao gồm cả tích cực và tiêu cực, qua đó xác định rõ những phương pháp dân vận cụ thể trong lãnh đạo quần chúng thiết thực, hiệu quả cao. Để nâng cao hiệu quả việc tập hợp, lãnh đạo quần chúng, trách nhiệm của Đảng là phải xây dựng đường lối vận động nhân dân phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với mong muốn, nguyện vọng của nhân dân; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”, tuyên dương, nhân rộng các mô hình, điển hình về công tác dân vận. Công tác dân vận là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị, do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ làm công tác dân vận, cần nhận thức và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Quyết định số 23-QĐ/TW, ngày 30-7-2021, của Bộ Chính trị, “Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”. Theo đó, công tác dân vận phải thực sự hướng về cơ sở, muốn vậy, phải thực sự nghiên cứu kỹ, đánh giá đúng tình hình, phải xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu lợi ích chính đáng của nhân dân và trên tinh thần phát huy dân chủ, tôn trọng nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân, nắm chắc tâm tư, nguyện vọng của nhân dân một cách khoa học. Do đó, phải triệt để đổi mới công tác dân vận để dân hiểu về tình hình đất nước, tuyệt đối tin tưởng vào chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thấy rõ lợi ích đem lại cho nhân dân, cho đất nước. Bởi vì, công tác dân vận: “Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”(17).

Thực hiện công tác dân vận, một mặt, cần tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; mặt khác, cần chú trọng đến công tác phát hiện, phòng ngừa và ngăn chặn “điểm nóng” chính trị - xã hội. Để thực hiện hiệu quả nội dung này, cần phải vận dụng linh hoạt phương pháp “dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và được bắt đầu từ việc nắm thông tin, tình hình về diễn biến, tính chất của “điểm nóng”. Nắm thông tin cần đi sâu, đi sát vào đời sống nhân dân, nắm được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, thấy được những nguy cơ tiềm ẩn có thể xảy ra “điểm nóng”. Do vậy, phương pháp dân vận cần hướng vào tuyên truyền, vận động nhân dân nhằm xây dựng quan điểm toàn diện, cụ thể cho quần chúng nhân dân, qua đó, tạo môi trường xã hội lành mạnh, mỗi một người dân có thể hiểu và nhận diện, phòng ngừa, đấu tranh trước những thông tin sai lệch.

Thứ năm, tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, chú trọng tổng kết, rút kinh nghiệm trong công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay. Cần tiếp tục chú trọng xây dựng, hoàn thiện các quy định, quy chế nhằm giữ vững kỷ luật, kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác dân vận. Tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả Quy định số 22- QĐ/TW, ngày 28-7-2021, quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng đối với các tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Theo đó, công tác kiểm tra, giám sát bảo đảm khách quan, dân chủ, công khai, minh bạch, tập trung và chủ động phát hiện, ngăn ngừa những khuyết điểm, hạn chế trong công tác dân vận và cần có chế tài xử lý nghiêm minh đối với những hành vi vi phạm kỷ luật dân vận; tích cực đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, quy định, chỉ thị, kết luận của Đảng về công tác dân vận.

Trên cơ sở đó, tích cực biểu dương, nhân rộng các mô hình, điển hình về công tác dân vận đối với từng tổ chức, địa phương và cá nhân cụ thể. Đồng thời, thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá đúng những mặt còn hạn chế trong thực hiện công tác dân vận hiện nay, từ đó rà soát, bổ sung, hoàn thiện và thực hiện Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, xây dựng cơ chế phối hợp giữa chính quyền, các cơ quan, tổ chức với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp. Thực hiện tốt Luật Thực hiện dân chủ cơ sở, sâu sát cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe tâm tư, kịp thời giải quyết nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.

Nhận thức sâu sắc về giá trị to lớn, bền vững của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về công tác dân vận, phương pháp dân vận trong những năm qua, cùng với sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, nhiều chủ trương, đường lối đối với công tác dân vận, về đại đoàn kết toàn dân tộc, đổi mới nội dung, phương pháp vận động quần chúng đã được Đảng và Nhà nước ta xây dựng, bổ sung và ngày càng hoàn thiện phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định./.

---------------------

(1), (2), (3), (5), (11), (12), (13), (17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 232, 234, 232, 232, 192, 233, 238, 233
(4), (6), (7), (8), (9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 286, 332, 279, 307, 636, 637
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 284
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 223
(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 249