Kế thừa và phát huy dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội
1 - Những bước ngoặt của nền lập pháp dân chủ ở Việt Nam
Trải qua 11 khóa, tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam gắn liền với những sự kiện quan trọng, đánh dấu bước ngoặt của sự phát triển và đổi mới thể chế ở nước ta theo các chuẩn mực dân chủ và vận động dân chủ hóa xã hội.
- Đó là Quốc hội khóa đầu tiên năm 1946 với việc ban hành Hiến pháp đầu tiên, đặt nền móng cho quyền lập pháp của Nhà nước ta và đồng thời là Quốc hội vừa kháng chiến vừa kiến quốc, đánh bại chủ nghĩa thực dân kiểu cũ.
- Đó là Quốc hội của thời kỳ chiến tranh giải phóng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa trong hòa bình kiến thiết chế độ mới vừa trong khói lửa chiến tranh ác liệt, phải huy động triệt để tài dân, sức dân để đánh bại chủ nghĩa thực dân kiểu mới, thống nhất đất nước.
- Đó là Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, khẳng định chủ quyền quốc gia - dân tộc.
- Đó là Quốc hội của thời kỳ đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống, gắn liền dân chủ hóa với pháp chế hóa xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Một phần năm thế kỷ đã đi qua trong sự nghiệp đổi mới cũng đồng thời là đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta.
Phải trải qua 15 năm tiến hành đổi mới, từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội IX (2001), hệ mục tiêu của đổi mới nước ta mới trở nên hoàn chỉnh và định hình rõ ràng. Dân chủ đã được khẳng định như một giá trị, một động lực quan trọng của đổi mới. Dân chủ cũng đồng thời là một trong những mục tiêu mà công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hướng tới: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Trong những nghị quyết quan trọng, có ý nghĩa lịch sử mà Quốc hội nước ta thông qua trong những năm gần đây, có hai nghị quyết thật sự ấn tượng, phản ánh đúng tâm nguyện của dân, cũng đồng thời đáp ứng kịp thời những đòi hỏi bức xúc của xã hội và Nhà nước ta trên con đường dân chủ hóa - công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đó là nghị quyết về ban hành và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở năm 1998, đã đem lại cho quần chúng nhân dân một công cụ pháp lý có hiệu lực để thực hiện quyền làm chủ của mình tại cơ sở, trong đó có quyền tham gia trực tiếp vào công việc quản lý nhà nước, kiểm tra và giám sát mọi hoạt động và hành vi của cán bộ, công chức do dân ủy quyền trong việc thực hiện quyền lực nhân dân. Đó còn là Quốc hội thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng. Đây là văn bản luật thiết thực và hệ trọng nhất vào lúc này làm cơ sở pháp lý để đẩy lùi các "trọng bệnh" và "quốc nạn", bảo vệ lợi ích và quyền lực của dân.
Chú trọng tới dân chủ ở cơ sở là chú trọng đến vai trò và sức mạnh của dân, bởi dân và các hộ dân trong các cộng đồng dân cư đều làm ăn, sinh sống ở cơ sở, gây dựng phong trào từ cơ sở.
Nghị quyết của Quốc hội về Quy chế Dân chủ ở cơ sở rất kịp thời và được lòng dân, nó xuất phát từ một nền tảng pháp lý dân chủ và nhân văn sâu sắc là trọng dân, theo đúng tinh thần dân chủ của Hồ Chí Minh: "trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân", "Trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của toàn dân", "Dân chủ là của quý báu nhất trên đời của dân" và "thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn"(1).
Trọng dân vì dân là chủ thể gốc của quyền lực, vì dân là cơ sở xã hội sâu xa nhất của chế độ, vì nước ta là một nước dân chủ nên nhân dân là người chủ và làm chủ xã hội.
Nghị quyết của Quốc hội về Luật Phòng, chống tham nhũng là nghị quyết tỏ rõ quyết tâm của toàn dân mà Quốc hội là đại biểu trong một nỗ lực làm trong sạch thể chế, bộ máy công quyền, làm lành mạnh xã hội, phản ánh tinh thần trọng pháp, coi pháp luật là tối thượng, theo phương châm "thượng tôn pháp luật", để nghiêm trị mọi hành vi tham nhũng, hại nước, hại dân.
Nguyên lý dân chủ - pháp quyền của Quốc hội và Nhà nước ta cho thấy, đã trọng dân thì phải trọng pháp và trọng pháp là để trọng dân. Nghị quyết về đạo luật phòng chống tham nhũng là một bước tiến của hoạt động lập pháp, của một nền lập pháp bảo vệ dân, tạo cơ hội và khả năng để dân nhập vào cuộc chiến chống tham nhũng. Đó không chỉ là nghị quyết được lòng dân, được dân ủng hộ mà còn là nghị quyết hợp thời đại, thể hiện đúng xu thế của thế giới ngày nay, muốn đạt được dân chủ thì phải kiên quyết chống quan liêu tham nhũng. Tham nhũng là sự thách thức lớn nhất với dân chủ. Thái độ, hành động và hiệu quả chống tham nhũng sẽ là thước đo thử thách toàn diện cả năng lực, đạo đức, bản lĩnh chính trị của các cơ quan quyền lực của dân, trước hết là của Quốc hội.
2 - Dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội thời kỳ đổi mới
Trên cơ sở đổi mới kinh tế có hiệu quả, nước ta đã tiến hành đổi mới chính trị mà thực chất là đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhà nước là một thực thể cấu thành hệ thống chính trị. Nói tới nhà nước thì trước hết là nói tới Quốc hội, cơ quan đại biểu cho ý chí và quyền lực nhân dân cao nhất, là cơ quan lập pháp, trước hết là lập hiến. Công tác trọng yếu nhất của Quốc hội là công tác lập pháp, đồng thời là hoạt động giám sát đối với tất cả các tổ chức quyền lực nhà nước, các hành vi của tổ chức và cá nhân công dân trong xã hội, đảm bảo cho sự tôn nghiêm pháp luật được thực hiện, quyền bình đẳng trước pháp luật của tất cả mọi người được tuân thủ. Đổi mới hệ thống chính trị không những phải đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng mà còn phải đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong đó có Quốc hội, đổi mới các tổ chức, các đoàn thể chính trị - xã hội của quần chúng.
Nếu Nhà nước là thành phần cốt yếu, rường cột của chế độ chính trị, của hệ thống chính trị thì Quốc hội lại là cốt yếu của Nhà nước, là thiết chế biểu thị đầy đủ, tập trung và thống nhất quyền lực, quyền năng và sự ủy quyền của nhân dân. Thực chất của chế độ dân chủ là chế độ ủy quyền của dân cho Nhà nước. Thông qua bầu cử, dân trực tiếp lựa chọn và bầu ra những đại biểu thực sự xứng đáng với sự ủy quyền của mình ở cơ quan có quyền lực cao nhất để lập pháp là Quốc hội. Cũng như vậy, dân lựa chọn bầu ra những đại biểu hợp thành cơ quan đại diện cho quyền lực của mình ở địa phương và cơ sở (các Hội đồng nhân dân).
Việc kế thừa và phát huy dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội hiện nay đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới Quốc hội từ hai lĩnh vực quan trọng nêu trên: tổ chức nên một Quốc hội thực sự dân chủ, thể hiện đúng đắn tính đại diện, đại biểu cho ý chí và quyền lực của dân, tạo ra một cơ cấu tổ chức sao cho Quốc hội thực sự có khả năng hoạt động lập pháp và giám pháp, một Quốc hội có thực lực và thực quyền để thực thi dân chủ. Đó còn là một Quốc hội có nội dung và phương thức hoạt động một cách dân chủ, chủ động, sáng tạo, tích cực và năng động, đủ sức chứng tỏ sức mạnh của dân chủ trong cuộc đấu tranh chống lại sự phản dân chủ dưới mọi hình thức: vi phạm quyền dân chủ của dân, tập trung quan liêu, thói tự do vô chính phủ, kể cả dân chủ hình thức. Như đã nói, tiêu điểm của mọi hoạt động dân chủ ấy là dân chủ trong hoạt động lập pháp, tạo ra một hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ, kiểm tra và giám sát việc thực thi pháp luật trong tất cả các cơ quan công quyền, trong các tổ chức và cá nhân công dân, thực hiện chức năng của Quốc hội là quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Để đổi mới Quốc hội có kết quả từ hai lĩnh vực nêu trên theo định hướng kế thừa và phát huy dân chủ, có hàng loạt vấn đề đặt ra cần phải giải quyết.
Có thể quy vào hai nhóm vấn đề chính: những vấn đề liên quan tới nhận thức lý luận về dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội; những vấn đề liên quan tới thực tiễn vận động dân chủ, thực hành dân chủ trong cơ cấu tổ chức bộ máy và hoạt động của Quốc hội.
Phải giải quyết tốt và đồng bộ cả hai nhóm vấn đề đó thì việc kế thừa và phát huy dân chủ của Quốc hội mới trở thành một kết quả thực tế đảm bảo cho nhà nước mạnh, có thực quyền, thực hiện được sự ủy quyền của dân, phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn.
· Vấn đề thứ nhất: Về nhận thức lý luận
Cần lưu ý là, cả hai nhóm vấn đề đó không chỉ liên quan đến các cấu phần khác nhau của nhà nước, nhất là chính phủ hành pháp, đến hoạt động cải cách nền hành chính công cũng như hoạt động giám sát, kiểm sát và xét xử theo luật định, mà còn liên quan đến sự phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng, cả quan phương - chính thống và phi quan phương - phi chính thống. Trong các mối quan hệ tác động đó, quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý là mối quan hệ chủ đạo, căn bản nhất. Muốn kế thừa và phát huy được dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội thì trước hết cần phải dân chủ hóa sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và với Nhà nước.
Quốc hội phục vụ dân đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát, thúc đẩy của dân. Một Quốc hội thực sự dân chủ thì sẽ có tác dụng rất to lớn trong việc thu hút và lôi cuốn sự quan tâm của dân chúng, tạo hậu thuẫn xã hội để làm tăng thực lực, thực quyền của Quốc hội, nhờ đó Quốc hội đem lại những lợi ích và hiệu quả thiết thực cho dân chúng, cho quyền làm chủ trên thực tế của dân.
Bởi thế, tư tưởng về một nhà nước của dân, do dân, vì dân cần phải chuyển từ một quan niệm chung, tổng thể về quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước sang từng bộ phận cụ thể của cái tổng thể ấy, làm cho nó có sức mạnh của tính hiện thực - cụ thể - trực tiếp chứ không phải là một mệnh đề trừu tượng, một ý niệm trừu tượng chung dễ bị hình thức hóa. Dân chủ là bản chất của Nhà nước, thì trước hết dân chủ là bản chất của Quốc hội mà chính nhờ có hành động bỏ phiếu trong bầu cử của dân thì mới sinh ra Quốc hội. Quốc hội dân chủ phải là Quốc hội của dân, do dân, vì dân. Chính phủ do Quốc hội lập ra theo ý chí, nguyện vọng, thẩm quyền của dân, nên xét về thực chất, dân cũng lập ra chính phủ, chính phủ là chính phủ của dân, do dân, vì dân. Nói rộng ra, hệ thống chính trị cũng phải như vậy. Vị trí, vai trò chủ thể của dân phải được khẳng định trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Ở đây, dân với tư cách là quần chúng nhân dân lao động đã được giải phóng, trở thành người chủ của xã hội mới, là chủ và làm chủ, đồng thời dân còn với tư cách là cộng đồng dân tộc, đó là biểu thị sức mạnh chủ sở hữu giá trị lớn nhất của chính họ - giá trị dân chủ. Bản chất chính trị của Đảng, của Nhà nước và của hệ thống chính trị đang tồn tại và hiện diện trong xã hội ta là bản chất giai cấp công nhân. Điều đó không hề tách rời khỏi mối liên hệ với bản chất nhân dân, dân tộc thấm nhuần nội dung, giá trị của dân chủ. Chính nhờ thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân mà Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị của chúng ta càng có điều kiện thuận lợi nhất, càng có nhu cầu tự nhiên nhất là liên hệ mật thiết, máu thịt với nhân dân, gắn bó sâu sắc, bền chặt với dân tộc, thống nhất hữu cơ và tất yếu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất mà rốt cuộc lịch sử đã tìm thấy, có khả năng phấn đấu đến cùng và thực hiện đến cùng lợi ích xã hội và quyền lực xã hội của nhân dân và dân tộc, bởi duy nhất chỉ có nó là giai cấp không có lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu. Nó tìm thấy lợi ích chân chính của mình khi toàn tâm toàn ý thực hiện và bảo vệ cho lợi ích chung của toàn dân, toàn xã hội.
Đó là cơ sở sâu xa để hiểu vì sao, tổ chức cách mạng (Đảng) và tổ chức quyền lực (Quốc hội, Chính phủ...) cũng như cơ chế tổng thể thực hiện quyền lực (hệ thống chính trị) mang bản chất chính trị giai cấp công nhân thì đồng thời cũng mang bản chất xã hội là nhân dân và dân tộc. Sự đồng thuận, nhất trí này bắt nguồn sâu xa từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, từ bản chất, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, từ thời đại mới đã mở ra sau Cách mạng Tháng Mười, cho phép gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, Đảng, Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, Viện Kiểm sát, Tòa án) và hệ thống chính trị ở nước ta đều là của dân, do dân, vì dân, mang bản chất giai cấp công nhân đồng thời đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân và của dân tộc. Tất cả các tổ chức đó, muốn thực sự là của dân, do dân, vì dân thì phải bảo đảm thực hiện, thực hành dân chủ; bảo đảm phát huy quyền làm chủ của dân, làm cho dân vừa thụ hưởng được mọi thành quả vật chất, tinh thần của dân chủ, vừa đấu tranh để bảo vệ, giữ gìn và phát triển lành mạnh nền dân chủ ở nước ta, thực hiện thông qua các tổ chức của mình (dân chủ đại diện) và tự mình (dân chủ trực tiếp) quyền tham gia quản lý, quyền tư vấn phản biện, giám sát xã hội để quyền lực không bị biến dạng, thoái hóa.
Tập trung nhất những yêu cầu này chính là tạo ra hợp lực để đấu tranh chống tham nhũng, giảm thiểu tới mức thấp nhất những tổn hại do tham nhũng gây ra, tiến tới đẩy lùi được tham nhũng. Xây dựng nhà nước pháp quyền thì công tác lập pháp của Quốc hội càng trở nên quan trọng. Không có dân chủ nào ở bên ngoài luật pháp. Cũng không có luật pháp nào là tiến bộ và có ý nghĩa thúc đẩy xã hội phát triển mà lại không dựng xây trên nền tảng nguyên tắc, chiến lược dân chủ pháp quyền. Pháp luật là giới hạn của dân chủ, là hành lang vận động của dân chủ. Quốc hội và công tác lập hiến, lập pháp của Quốc hội là nền tảng và sức mạnh pháp lý để thực hiện dân chủ của nhân dân. Quốc hội cũng là một Quốc hội hành động vì dân, phấn đấu đem lại lợi quyền cho dân, do đó bản chất của Quốc hội và Nhà nước ta nói chung, cả trong lý luận và thực tiễn phải gắn liền với pháp lý nhân văn. Đây là chỗ mà bản chất Quốc hội trùng hợp với bản chất của dân chủ.
Kế thừa và phát huy dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội không có mục đích nào khác là vì cuộc sống của dân, vì một triển vọng phát triển tốt nhất của nhân dân và của toàn dân tộc mà Quốc hội, Nhà nước ta nỗ lực thực hiện.
· Vấn đề thứ hai: Về giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn.
Để thực hiện định hướng dân chủ nêu trên, việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội cần tập trung giải quyết các vấn đề, các nhiệm vụ vừa cấp bách vừa cơ bản, lâu dài mà thực tiễn cuộc sống đang đặt ra, nhân dân đang mong đợi.
1 - Cải cách và hoàn thiện chế độ bầu cử đại biểu nhân dân, trước hết là đại biểu Quốc hội. Cần tập trung trước hết vào việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Bầu cử; thống nhất và nhất quán giữa luật bầu cử với các điều khoản trong Hiến pháp sao cho thực sự tôn trọng quyền tự do đề cử, ứng cử của công dân vào cơ quan quyền lực cao nhất.
Muốn có một Quốc hội dân chủ và có năng lực thực hành dân chủ thì phải bắt đầu từ dân chủ trong việc tổ chức nên Quốc hội. Trong sự trưởng thành ý thức dân chủ của công dân và của xã hội, một xu hướng tích cực đang hình thành là sẽ ngày càng có nhiều người tự ứng cử. Quyền đó của công dân phải được tôn trọng.
2 - Để thực hiện và phát huy được dân chủ thì mối quan hệ mật thiết giữa đại biểu Quốc hội với cử tri, với dân chúng là rất quan trọng. Đại biểu Quốc hội phải gắn bó, hiểu biết về địa phương, có điều kiện gần dân, hiểu dân và dân cũng biết họ tường tận, tường minh.
3 - Có chế độ quy định, cơ chế và chế tài rõ ràng để đại biểu gặp gỡ, tìm hiểu cuộc sống, nguyện vọng của dân, dân tìm đến đại biểu để đề đạt, để chất vấn.
4 - Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần được tổ chức và hoạt động theo đúng yêu cầu khoa học và dân chủ, không tự biến thành cấp trên của Quốc hội, mà tập trung nỗ lực vào chuẩn bị tốt nhất chương trình làm việc của kỳ họp Quốc hội, trong đó mấu chốt là công tác lập pháp, chất vấn, giải trình giữa đại biểu Quốc hội với các thành viên Chính phủ.
5 - Cơ cấu các ủy ban chuyên môn của Quốc hội rất quan trọng, hoạt động và năng lực của các ủy ban này sẽ quyết định phần lớn chất lượng hiệu quả của Quốc hội. Do đó phải thiết kế tốt hệ thống các ủy ban, năng lực các thành viên ủy ban, điều kiện làm việc, để họ nắm thông tin xã hội từ phía người dân nhanh nhất, truyền tải ý kiến của dân tới Quốc hội tốt nhất, đúng nhất, kịp thời và hiệu quả nhất.
6 - Phải chuyển mạnh phương thức hoạt động của Quốc hội, từ Quốc hội tham luận sang Quốc hội thảo luận, tranh luận, đối thoại, chất vấn, giải trình một cách thực chất thiết thực, hiệu quả, đảm bảo thu hút người dân quan tâm tới sinh hoạt của Quốc hội.
7 - Tăng thêm thời gian chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với các thành viên của chính phủ, tất cả các bộ, ngành đều phải là đối tượng chất vấn, giám sát. Chất lượng chất vấn và trả lời phải được nâng cao, đối thoại, tranh luận, hỏi - đáp trực tiếp, đó là nơi những người được dân ủy quyền cùng vì dân mà thể hiện cao nhất năng lực cũng như trách nhiệm của mình.
8 - Áp dụng thường xuyên và mạnh mẽ chế độ Quốc hội xem xét, bỏ phiếu tín nhiệm các thành viên chính phủ, tạo ra một tâm lý xã hội cho những người giữ chức quyền phải luôn coi trọng dư luận xã hội, chủ động và đủ sức vượt qua áp lực xã hội để quản lý, cầm quyền cho tốt hơn, nhất là chống quan liêu, tham nhũng.
9 - Đặc biệt chú trọng hoạt động phân bố, quyết định ngân sách của Quốc hội, thực hiện vai trò giám sát, kiểm tra của Quốc hội đối với các cơ quan nhà nước và xã hội nói chung.
10 - Xây dựng và thực hiện quy chế hay cơ chế làm việc, phối hợp giữa Quốc hội với lãnh đạo Đảng, với Chính phủ, với Mặt trận và đoàn thể để thực thi dân chủ một cách thực chất, nghiêm túc nhất.
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t 12, tr 249
Tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Quốc hội với nhân dân  (17/05/2007)
Chọn ai vào Quốc hội khóa XII  (17/05/2007)
Trung Quốc: “Dân chủ trong Đảng là sinh mệnh của Đảng”  (17/05/2007)
Quản lý theo kết quả  (17/05/2007)
Trung Quốc giữ vị trí số 1 thế giới về sản xuất mạch tích hợp  (17/05/2007)
Ba điều ước  (17/05/2007)
- Vai trò của Hội Xuất bản Việt Nam trong việc phát triển ngành xuất bản và nguồn nhân lực ngành xuất bản
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 2)
- An ninh nguồn nước ở Thái Lan và hàm ý cho Việt Nam
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên