Vĩnh Long chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển ổn định và bền vững
Thành quả lớn nhất trong những năm đầu thế kỷ XXI của Vĩnh Long là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng khai thác tốt các lợi thế, phát triển ổn định và bền vững. Nhờ vậy, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân từ năm 2001 - 2007 đạt 9,52%, khu vực I tăng 5,65%, khu vực II tăng 16,68% và khu vực III tăng 11,52%. Để tiếp tục phát triển, Vĩnh Long có nhiều giải pháp cụ thể nhằm huy động tối đa các nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế để tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển công nghiệp và dịch vụ trên cơ sở phát triển nông nghiệp theo hướng áp dụng công nghệ cao, an toàn, hiệu quả.
Chuyển mình cùng đất nước trong xu thế hội nhập
Vĩnh Long là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, với dân số trên 1 triệu người, gồm các dân tộc Kinh, Khơ-me và Hoa cùng làm ăn, sinh sống trên diện tích 1.478 km2, được phân bố tại 8 huyện, thị xã với 107 xã, phường, thị trấn. Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất, đặc biệt từ khi thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Vĩnh Long đã ra sức khắc phục khó khăn, đoàn kết, thi đua lao động sản xuất để xây dựng và phát triển quê hương.
Những năm gần đây, Vĩnh Long đang chuyển dịch theo hướng tập trung khai thác tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế - xã hội, trọng tâm là đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các ngành dịch vụ trên cơ sở phát triển nông nghiệp toàn diện, hiện đại.
Giai đoạn 2001 - 2007, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của tỉnh Vĩnh Long đạt 9,52%, trong đó, GDP khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản tăng 5,65%, công nghiệp - xây dựng tăng 16,68% và dịch vụ tăng 11,52%. Nếu so sánh năm 2007 với năm 2001, thì khu vực nông - ngư nghiệp giảm 8,58%; khu vực công nghiệp, xây dựng tăng 4,68%; khu vực dịch vụ tăng 3,91%.
Nông nghiệp Vĩnh Long chuyển dịch cơ cấu theo hướng đa dạng hóa cây trồng và vật nuôi, mang lại hiệu quả cao hơn trên một đơn vị diện tích canh tác. Khí hậu ôn hòa, nước ngọt quanh năm và đất đai màu mỡ, nên Vĩnh Long có lợi thế phát triển nhiều loại cây trồng đặc sản như bưởi Năm Roi, cam, quýt, nhãn, xoài, chôm chôm, sầu riêng và các loại thủy sản nước ngọt có giá trị kinh tế cao như tôm càng xanh, cá tra. Tỷ trọng giá trị cây lúa trong lĩnh vực trồng trọt giảm từ 58,43% năm 2000 xuống 41,59% năm 2007; tỷ trọng giá trị cây màu các loại tăng từ 8,12% năm 2000 lên 19,39% năm 2007; tỷ trọng cây ăn trái tăng từ 27,70% năm 2000 lên 34,58% năm 2007. Tỷ trọng chăn nuôi trong tổng giá trị nông nghiệp tăng từ 22,58% năm 2000 lên 24,01% năm 2007.
Phát triển ngành thủy sản, khai thác tiềm năng về mặt nước, nuôi trồng, đặc biệt là nuôi cá tra trên ao hồ và lồng bè phát triển mạnh. Năm 2007, giá trị thủy sản chiếm 16,78% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, tăng 12,95% so với năm 2000.
Vĩnh Long còn được biết đến với nhiều ngành nghề truyền thống nổi tiếng như gạch, ngói, gốm, thêu đan, dệt chiếu,... mà sản phẩm đã có mặt tại nhiều nước trên thế giới, kể cả những thị trường khó tính. Chương trình du lịch “đi trong màu xanh đồng bằng” mang nét văn hóa độc đáo của vùng sông nước và sinh thái miệt vườn, đang từng bước mang lại những điều lý thú và bổ ích đối với du khách trong và ngoài nước khi đến tham quan vùng đất “chín rồng” này.
Các ngành nghề công nghiệp chế biến vốn là thế mạnh của tỉnh được quan tâm, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư và có bước phát triển khá, nhất là chế biến nông, thủy sản, giày da, gạch, gốm, đóng tàu.
Cơ cấu thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đến nay đã hoàn thành việc chuyển 13 doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần theo đề án đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước. Phát triển được 61 hợp tác xã với 5.386 xã viên, 4.634 lao động và 2.177 tổ hợp tác sản xuất với 84 ngàn hộ thành viên, trong đó 2.127 tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp với 83 ngàn hộ. Toàn tỉnh hiện có 1.771 doanh nghiệp đang hoạt động với tổng vốn đăng ký khoảng 3.564 tỉ đồng. Ngoài ra, còn có 12 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cấp giấy phép đầu tư (hoặc giấy chứng nhận đầu tư) với tổng vốn đầu tư gần 63 triệu USD.
Cùng với việc phát triển kinh tế, những vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng được quan tâm thực hiện và đạt được những kết quả khả quan. Chương trình xóa đói, giảm nghèo đã trở thành hoạt động thường xuyên và sâu rộng trong toàn tỉnh. Từ năm 1997, tỉnh không còn hộ đói. Đến cuối năm 2007, tỷ lệ hộ nghèo còn 9,86%; đời sống vùng đồng bào Khơ-me có nhiều chuyển biến; xây dựng và bàn giao gần 5.300 căn nhà tình nghĩa; xây dựng mới và sửa chữa trên 19.000 căn nhà đại đoàn kết, góp phần giải quyết về nhà ở cho gia đình chính sách và hộ nghèo trong tỉnh. Hầu hết người nghèo, người thuộc diện cứu trợ xã hội được cấp thẻ bảo hiểm y tế và khám chữa bệnh miễn phí.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa, sự nghiệp giáo dục, đào tạo nghề, y tế, văn hóa và thể dục thể thao cũng có nhiều chuyển biến tích cực, đáp ứng nhu cầu học tâp, chăm sóc sức khỏe và vui chơi, giải trí của người dân. Hằng năm, giải quyết việc làm cho 25.000 - 27.000 lao động, tỷ lệ thất nghiệp còn 1,76%; tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch đạt khoảng 80%. Toàn tỉnh đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở và đang thực hiện chương trình phổ cập phổ thông trung học, trước hết là khu vực thành thị; 95% trường lớp được kiên cố hóa, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập cơ bản được bảo đảm. Tất cả các khóm ấp có nhân viên y tế hoạt động, 100% trạm y tế được ngói hóa và trên 90 trạm y tế có bác sĩ phục vụ. Các công trình văn hóa trọng điểm được quan tâm đầu tư xây dựng; 5/8 huyện, thị xã có Trung tâm văn hóa, phủ sóng phát thanh và truyền hình trong toàn tỉnh. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và nếp sống văn minh nơi công cộng” tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu.
Con đường hội nhập và những giải pháp
Trong giai đoạn sắp tới, Vĩnh Long tập trung huy động mọi nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế để có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, phấn đấu đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP ngang bằng và tiến tới cao hơn bình quân các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và cả nước; trọng tâm là đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các ngành dịch vụ trên cơ sở nền nông nghiệp phát triển toàn diện, hiện đại. Xây dựng và nâng cao chất lượng hạ tầng kinh tế - xã hội, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu nêu trên, ngoài những công việc thường xuyên, Vĩnh Long sẽ tập trung phát huy thế mạnh của những ngành kinh tế mũi nhọn (sản xuất gốm sứ, may mặc, dược phẩm, chế biến nông sản, thủy sản, rượu, bia, công nghệ thông tin); đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp; ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, để nâng cao chất lượng cây trồng, vật nuôi, tăng nhanh giá trị và hiệu quả trên một đơn vị diện tích sản xuất. Phát triển ngành nghề truyền thống ở nông thôn. Tăng đầu tư để phát triển đô thị, chú trọng phát triển chợ và tuyến dân cư nông thôn. Quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm. Tập trung hỗ trợ, chuyển giao khoa học, kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, quản lý, đào tạo nghề, thông tin thị trường cho người sản xuất, doanh nghiệp thay cho hỗ trợ vốn, bao tiêu sản phẩm như trước đây. Đồng thời, xây dựng lộ trình phát triển với những giải pháp cụ thể cho từng loại hàng hóa, từng lĩnh vực sản xuất; phát huy tối đa các ngành kinh tế có lợi thế.
Vĩnh Long xác định rõ việc tập trung cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải theo hướng phát triển ổn định và bền vững. Cụ thể là:
Thứ nhất, phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến, với thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu. Thực hiện tốt chương trình giống nhằm phục vụ cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, tạo ra hàng hóa có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Tăng cường công tác quản lý đất đai. Tổ chức sản xuất chăn nuôi theo hướng trang trại gắn với chế biến, giết mổ tập trung, chủ động xây dựng các biện pháp phòng chống dịch bệnh. Trước mắt trong năm 2008, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 3% so với năm 2007, thủy sản tăng 21%. Sản lượng lúa 800 ngàn tấn, đàn heo 340 ngàn con, đàn bò 70 ngàn con, sản lượng thủy sản trên 100.000 tấn, trong đó nuôi trồng 97.000 tấn.
Những giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu trên là:
- Nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua các chương trình khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ thực vật, ứng dụng khoa học công nghệ...
- Xây dựng các vùng sản xuất theo hướng sạch, an toàn.
- Tiếp tục giảm diện tích trồng lúa để chuyển sang trồng màu, nuôi cá có hiệu quả kinh tế cao. Tăng diện tích trồng rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày.
- Tiếp tục phát triển đàn heo theo hướng nạc, bò thịt theo hướng lai sind, khôi phục có điều kiện đàn gia cầm và một số con khác như đàn dê.
- Tận dụng mặt nước và bãi bồi ven sông để phát triển nuôi cá theo hướng công nghiệp.
- Củng cố và mở rộng quy mô, năng lực sản xuất giống; trong đó đặc biệt quan tâm công tác xã hội hóa về giống.
Thứ hai, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mũi nhọn với tốc độ cao
Tạo điều kiện thuận lợi để công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng cao, nâng cao hiệu quả sản xuất đi đôi với giảm chi phí để tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Phát huy năng lực mới tăng thêm của các dự án sản xuất trong khu công nghiệp và của các cơ sở hiện có, của tiểu thủ công nghiệp và tiềm năng của các làng nghề tiểu thủ công nghiệp.
Phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp tăng 32%, trong đó thủy sản đông lạnh 6.700 tấn, tăng 53,3%; lau bóng gạo xuất khẩu 190 ngàn tấn, tăng 23,6%; rau quả đóng hộp 1.400 tấn, tăng 16,67%; thức ăn gia súc, gia cầm 4.800 tấn, tăng 30,85%; thức ăn thủy sản 30.000 tấn, tăng 45,42%...
Các giải pháp chủ yếu là tập trung vào công tác tuyên truyền phổ biến Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển công nghiệp trong thời gian tới. Nghiên cứu, thể chế hóa nghị quyết thành các chính sách, dự án cụ thể và kế hoạch của các cấp, các ngành.
- Tăng cường thu hút đầu tư, hỗ trợ, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp.
- Đẩy mạnh hoạt động khuyến nông để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng.
- Tập trung công tác giải phóng mặt bằng và đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng các khu, tuyến, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, nhà máy bia và cụm công nghiệp Phú An. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có nhu cầu đến xây dựng nhà xưởng sản xuất nhằm tạo năng lực sản xuất mới, tạo bước đột phá góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ ba, mở rộng phát triển đa dạng các ngành dịch vụ
Phát triển đa dạng, nâng cao chất lượng các hoạt động: Bưu chính - viễn thông, vận tải, du lịch, tín dụng ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn, giới thiệu việc làm... Quản lý có hiệu quả hoạt động mua bán bất động sản nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách các cấp. Tiếp tục thực hiện xây dựng chợ theo quy hoạch, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa ở tỉnh và xây dựng các khu du lịch mới.
Giá trị các ngành dịch vụ năm 2008 phấn đấu tăng 15,3%, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ 10.500 tỉ đồng, tăng 20,7%; 510 ngàn lượng khách du lịch đến tỉnh, tăng 20%, trong đó khách quốc tế tăng 17,39%.
Giải pháp cho một số ngành chủ yếu cụ thể như sau:
Thương mại nội địa, khuyến khích và nhân rộng các mô hình cá nhân, tổ chức sản xuất trong tỉnh liên kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với các đối tác có thị trường. Triển khai cụ thể các nội dung liên kết đã ký với thành phố Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế để các doanh nghiệp, người sản xuất có kế hoạch thích ứng với áp lực cạnh tranh mới. Xây dựng chương trình hành động hậu gia nhập WTO của tỉnh và các ngành chủ lực.
Tiếp tục xây dựng các chợ trên địa bàn tỉnh, nhất là các chợ vùng nông thôn và thay thế các chợ vi phạm hành lang bảo vệ giao thông.
- Phát huy thành quả của huy động các nguồn lực đầu tư phát triển du lịch nhằm khai thác tiềm năng, vị thế của tỉnh đáp ứng nhu cầu du lịch, vui chơi giải trí của nhân dân trong tỉnh và du khách đến tỉnh.
Tăng cường quảng bá, liên kết với các địa phương có lượng khách du lịch lớn và đầu mối du lịch quốc tế để tăng lượng khách đến tỉnh. Tạo điều kiện cho tư nhân phát triển các loại hình du lịch theo nhu cầu của thị trường.
- Nâng cao chất lượng hoạt động vận tải, xử lý nghiêm các vi phạm luật lệ giao thông và thực hiện chuyển đổi nghề cho xe lôi, xe ba gác. Sắp xếp ổn định hoạt động các tuyến xe buýt, hoàn thành phủ các tuyến xe buýt trên tất các đường tỉnh. Thực hiện nghiêm quy định quản lý phạm vi hành lang an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh.
Phát triển nhanh và đa dạng hoạt động bưu chính viễn thông đi đôi với thực hiện các giải pháp chăm sóc khách hàng. Cải thiện chất lượng đường truyền in-tơ-nét để phục vụ đắc lực cho hoạt động giao lưu quốc tế, thu thập thông tin và thương mại điện tử.
Với đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, được sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, sự giúp đỡ, hỗ trợ của các địa phương, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Vĩnh Long quyết tâm phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức để đạt được những thành tựu to lớn trong những năm tiếp theo. Trước hết, phấn đấu phát triển nền kinh tế với tốc độ nhanh và bền vững làm nền tảng góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
Công tác đối ngoại quốc hội trong hội nhập  (08/04/2008)
Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới  (08/04/2008)
Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới  (08/04/2008)
Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội  (08/04/2008)
Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội  (08/04/2008)
Mục lục Tạp chí Cộng sản số 768 (4-2008)  (08/04/2008)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên