Một trong những vấn đề vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài được xã hội quan tâm nhất hiện nay là xây dựng một nền giáo dục với chất lượng ngày càng cao để không chỉ góp phần nâng cao dân trí mà còn tăng cường chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

1. Sự cần thiết đổi mới tư duy giáo dục

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền giáo dục của nước Việt Nam mới được hình thành và đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, tạo nguồn nhân lực góp phần quan trọng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ cũng như những năm đầu của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, so với yêu cầu mới và hội nhập của đất nước hiện nay thì nền giáo dục nước ta còn bộc lộ không ít hạn chế, bất cập trên nhiều phương diện; xuất hiện nhiều vấn đề cần được đổi mới làm cho nền giáo dục nước nhà có thể đáp ứng được yêu cầu mới của quá trình đổi mới và hội nhập hiện nay mà trước hết là đổi mới tư duy trong việc quản lý ngành, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý...

Một thời gian dài, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nền giáo dục và đào tạo của chúng ta chưa xác định được các mục tiêu rõ ràng. Giáo dục, đào tạo chưa được coi là điểm đột phá để đưa đất nước phát triển đi lên như nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới có hoàn cảnh như nước ta đã từng làm. Trên thực tế, chúng ta chưa đưa ra được những triết lý giáo dục cụ thể phù hợp mục tiêu phát triển nền giáo dục nước nhà nhằm phục vụ các nhiệm vụ trong từng giai đoạn phát triển đất nước. Bởi vậy, nền giáo dục nước nhà đã lạc hậu trước sự biến chuyển nhanh chóng của các nền giáo dục trên thế giới trong giai đoạn hiện nay.

Phần lớn nội dung và chương trình giáo dục các cấp hiện nay ở nước ta đều được biên soạn hoặc còn chịu ảnh hưởng bởi nội dung, chương trình giáo dục của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, nhất là của Liên Xô. Một thời gian dài, những nội dung và chương trình giáo dục này khá phù hợp với nền giáo dục của nước ta và nó đã mang lại những thành tựu hết sức quan trọng. Song, tự nó cũng hàm chứa rất nhiều hạn chế, bất cập. Đặc biệt, trong quá trình đổi mới và hội nhập hiện nay thì những bất cập đó lại càng trở nên rõ nét đòi hỏi cần có sự cải cách và đổi mới cho phù hợp.

Sự bất cập còn thể hiện ở phương pháp giáo dục. Các phương pháp dạy và học thường tạo ra sự thụ động đối với người học, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo thường bất cập. Người học thường ít vận dụng được những gì đã học, và nếu muốn làm việc được thì buộc phải chấp nhận một quá trình “đào tạo lại”. Điều đó lãng phí không chỉ tiền của mà còn cả thời gian đối với người học.

Về hiệu quả của nền giáo dục thì đã rõ. Mặc dù với tỷ lệ hơn 90% dân số biết chữ, nhưng chất lượng nguồn lao động của chúng ta lại còn một khoảng cách khá xa so với tiêu chuẩn chung của thế giới, nhất là so với các nước trong khu vực. Theo đánh giá của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), chất lượng lao động của Việt Nam hiện nay chỉ đạt 29,6% so với tiêu chuẩn quốc tế (100%), trong khi đó Phi-líp-pin đạt 49,7%, Trung Quốc: 52,5%, Xin-ga-po: 70,2% và Hàn Quốc: 76,3%. Chất lượng của đội ngũ cán bộ khoa học Việt Nam so với chuẩn quốc tế cũng chỉ đạt 23%, trong đó, ngoại ngữ đạt 25% và khả năng tiếp cận khoa học - công nghệ: 20%. Khảo sát thực trạng chất lượng nguồn nhân lực cho thấy Việt Nam đang thừa nguồn lao động phổ thông, nhưng thiếu nghiêm trọng lao động đã qua đào tạo công nhân kỹ thuật bậc cao… Việt Nam mới có gần 30% lao động được đào tạo nghề, trong khi ở các nước trong khu vực, con số đó là 50%. Đây là thách thức lớn nhất của chúng ta khi gia nhập WTO. Chất lượng nguồn nhân lực thấp là nguyên nhân chủ yếu làm giảm khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, dẫn đến năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm công nghiệp và dịch vụ không cao, và, hệ quả chung cuộc là làm hạn chế tốc độ phát triển đất nước[1].

2. Một số giải pháp

Để xây dựng và phát triển nền giáo dục đáp ứng được yêu cầu phát triển mới của đất nước, trong đó có yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập, đòi hỏi chúng ta cần phải tiến hành đồng bộ một hệ thống các giải pháp:

Một là, xây dựng một triết lý giáo dục mới phù hợp với yêu cầu, nội dung và phương pháp của nền giáo dục trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quan niệm và triết lý riêng cho nền giáo dục của mình. Triết lý giáo dục là những quan điểm, quan niệm chung về mục đích và phương pháp giáo dục của mỗi quốc gia. Nó thường phải trả lời cho những câu hỏi: Hoạt động giáo dục là gì? Hoạt động giáo dục nhằm mục đích gì? Hoạt động giáo dục phải như thế nào? v.v... Song, triết lý giáo dục nào cũng phải hướng tới con người với tư cách là đối tượng của giáo dục. Một nền giáo dục tiến bộ là một nền giáo dục thực sự cho con người, vì con người. Còn ngược lại, nếu chỉ coi giáo dục là phương tiện để đạt tới các mục tiêu khác thì sớm hay muộn cũng làm cho nền giáo dục đó bị phá sản. Không những vậy, nó cũng chính là một trong những nguyên nhân cản trở việc phát huy nhân tố con người của mỗi quốc gia.

Trong quá trình đổi mới và hội nhập hiện nay, chúng ta cần đưa ra được một quan niệm mới, triết lý mới phù hợp với yêu cầu và nội dung của nền giáo dục nước nhà trong thời kỳ mới. Theo đó, mục đích của giáo dục, đào tạo đối với con người hiện nay không chỉ đơn thuần vì lợi ích của chính bản thân họ mà còn để họ trở thành con người có đạo đức, có tấm lòng nhân văn, phụcvụ đất nước... Với ý nghĩa như vậy, triết lý mới trong giáo dục ở nước ta hiện nay theo chúng tôi phải chăng là: Học vì bản thân, học vì sự phồn vinh của đất nước!

Hai là, đổi mới nội dung giáo dục cho phù hợp với điều kiện phát triển mới của đất nước. Theo đó, cần tập trung rà soát biên soạn và biên soạn lại hệ thống các giáo trình, sách giáo khoa cho các cấp học hiện nay theo hướng vừa tăng được khối lượng kiến thức, nhất là những kiến thức mới, kiến thức “chuẩn giá trị” chung so với các nước trong khu vực và trên thế giới nhưng trước hết phải đảm bảo được những kiến thức cơ bản, đồng thời các khối kiến thức được đưa vào giảng dạy cũng phải phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý tuỳ theo từng đối tượng.

Ba là, cải tiến và đổi mới mạnh mẽ hơn nữa đối với các phương pháp dạy và học trong các bậc học hiện nay nhằm phát huy tinh thần ham học hỏi, tính năng động của người học. Việc cải tiến và đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay cần thực hiện theo hướng làm cho quá trình giáo dục kết hợp với quá trình tự giáo dục của người học trở nên có hiệu quả hơn. Đối với các bậc học đại học và sau đại học hiện nay cần chuyển đổi mạnh mẽ quá trình đào tạo theo niên chế trước đây sang phương thức đào tạo theo tín chỉ hiện nay. Tích cực nghiên cứu và áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ mới nhất vào trong quá trình dạy và học.

Bốn là, đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý giáo dục theo hướng xây dựng và phát triển một nền giáo dục mở, hiện đại phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về phương thức quản lý đối với giáo dục, Nhà nước, một mặt, tập trung quản lý chặt chẽ về nội dung, chương trình đào tạo, chất lượng đào tạo, đội ngũ nhân lực, ,mặt khác, cho phép tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình giáo dục và đào tạo đối với tất cả các bậc học trong cả nước. Để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện nay cần cải tiến công tác quản lý đối với các bậc đào tạo đại học và sau đại học theo hướng cho phép người học ghi danh vào tất cả các bậc học nói trên (không hạn chế về số lượng và số năm theo học, miễn là người ghi danh có thể đáp ứng được các điều kiện tối thiểu như bằng tốt nghiệp cấp học trước đó, khả năng chi trả tài chính…), nhưng đồng thời quản lý chặt chẽ “đầu ra” để đảm bảo chất lượng đối với các bậc học này. Tất nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay không tránh khỏi sự phân hoá trong giáo dục. Đó là quy luật tất yếu có thể xẩy ra với bất cứ một nền giáo dục nào đang trong quá trình chuyển đổi về cơ chế quản lý. Với chức năng định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cần căn cứ vào những vấn đề phát sinh cụ thể mà đề ra chính sách điều chỉnh cho phù hợp nhằm đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho tất cả mọi người.

Năm là, chú trọng công tác phát hiện và bồi dưỡng, giáo dục và đào tạo nhân tài - một tiền đề quan trọng để hình thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao của đất nước. Quá trình tập hợp và xây dựng đội ngũ nhân tài cho đất nước phải bắt đầu từ việc phát hiện ra trẻ em có năng khiếu. Trẻ em có năng khiếu đó chưa phải là nhân tài, nhưng là mầm sống phát triển thành nhân tài. Công việc này phải được cơ quan có trách nhiệm giao phó cho những người có trình độ hiểu biết cao, có tấm lòng tận tuỵ và đặc biệt phải có thái độ công tâm. Công việc đào tạo nhân tài phải được đầu tư thoả đáng, tập trung các chuyên gia có kinh nghiệm và những phương tiện, cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết. Những người có tài năng phải được đặt đúng vị trí và sử dụng đúng ngành nghề chuyên môn. Tình trạng “chảy máu chất xám”, tạo nên sự lãng phí lớn làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Đổi mới tư duy trong quản lý giáo dục ở nước ta hiện nay muốn có hiệu quả ngoài việc nhận thức đúng đồng thời phải có quyết tâm lớn của cả hệ thống chính trị. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: “Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản toàn diện nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiêp hóa hiện đại hoá đất nước”[2] Sự khẳng định đó cho thấy quyết tâm rất lớn của Đảng trong việc đổi mới tư duy về quản lý nền giáo dục nước nhà hiện nay. Vấn đề còn lại thuộc về vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước, trước hết vai trò của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc tìm ra các giải pháp phù hợp để biến quyết tâm lớn của Đảng trở thành hiện thực.



[1] Số liệu thống kê từ các nguồn: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam , Liên đoàn lao động Thành phố Hồ Chí Minh và Báo Tia sáng điện tử (2006)

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kin Đại hội đại biu toàn quc ln th X., Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr .206 - 207