Hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt - Trung
TCCSĐT - Ngày 23-2-2009, tại km số 0 cửa khẩu quốc tế Hữu nghị, Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành lễ chào mừng việc hoàn thành phân giới, cắm mốc (PGCM) biên giới đất liền Việt - Trung với sự hiện diện của Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phạm Gia Khiêm và ủy viên Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Đới Bỉnh Quốc cùng đại diện các cơ quan, ban ngành, nhân dân hai nước.
Phát biểu tại buổi lễ, Phó Thủ tướng Chính phủ, kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm nhấn mạnh: việc hoàn thành phân giới, cắm mốc là một thông điệp quan trọng khẳng định với thế giới về mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc phát biểu: "Công tác phân giới cắm mốc liên quan đến chủ quyền quốc gia, liên quan đến lợi ích thiết thực của nhân dân hai nước. Chúng tôi vui mừng nhận thấy, dưới sự quan tâm và chỉ đạo chung của lãnh đạo hai nước, căn cứ vào "Hiệp ước biên giới đất liền” hai nước Trung Quốc - Việt Nam, thông qua hữu nghị hiệp thương, cuối cùng chúng ta đã đạt được kết quả cùng thắng, hai bên cùng có lợi, hoàn thành tâm nguyện chung của nhân dân hai nước". Đây là sự cổ vũ lớn, đánh giá đúng những nỗ lực hợp tác của hai nước nói chung, của lực lượng tham gia PGCM, các cơ quan hữu quan và đồng bào các tỉnh biên giới phía Bắc trong thực hiện nhận thức chung và quyết tâm của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, Nhà nước về hoàn thành công tác PGCM biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc trong năm 2008; xây dựng một đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển giữa hai nước.
Với Việt Nam, hoàn thành PGCM Việt - Trung có ý nghĩa chiến lược trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên trong lịch sử hai nước Việt Nam - Trung Quốc có một đường biên giới rõ ràng, được đánh dấu bằng các cột mốc hiện đại, thuận tiện cho quản lý. Với kết quả này, chúng ta đã cơ bản giải quyết được hai vấn đề lớn về biên giới lãnh thổ trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc (đất liền và Vịnh Bắc Bộ), tạo điều kiện tập trung giải quyết các vấn đề trên Biển Đông.
Đường biên giới lịch sử
Đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài khoảng 1.406 km, tiếp giáp giữa 7 tỉnh của Việt Nam từ Tây sang Đông là Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang - Quảng Tây của Trung Quốc. Đường biên giới này đã được hình thành qua quá trình lịch sử hằng nghìn năm và tồn tại một cách tương đối ổn định kể từ khi Việt Nam giành được độc lập sau nghìn năm Bắc thuộc. Tuy nhiên, biên giới Việt - Trung mang tính khái niệm biên giới vùng, chưa phải là đường biên giới được phân giới cắm mốc, và được đánh dấu bằng một hệ thống mốc giới chính xác.
Công ước 26-6-1887 và Công ước bổ sung 20-6-1895 giữa Chính phủ Pháp (nhân danh Việt Nam) và Triều đình Mãn Thanh (Trung Quốc) là các văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên xác định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cơ sở của hai Công ước này được dựa trên đường biên giới lịch sử vốn có đã tồn tại từ lâu đời giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc trước khi Pháp xâm lược Việt Nam, thể hiện thành quả lịch sử của cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam. Đường biên giới đó đã được cụ thể hóa trên thực địa bằng một hệ thống mốc quốc giới đơn giản (341 mốc) từ Móng Cái đến biên giới Lào - Trung. Tuy nhiên, các Công ước này cũng tồn tại nhiều hạn chế như lời văn Công ước mô tả đơn giản, không rõ ràng, nhiều chỗ không phù hợp với thực địa, bản đồ tỷ lệ nhỏ, nhiều địa danh, khu vực không thể hiện như bãi Tục Lãm, Tài Xẹc, Dậu Gót, nhiều khu vực chưa được PGCM hoặc cắm mốc quá thưa. Ngoài ra, qua hơn trăm năm, hệ thống mốc cũng bị hư hại, xê dịch, phá hủy do chiến tranh và thời gian. Các nguyên nhân này đã gây ra nhiều khó khăn trong quản lý; và trong thực tế đàm phán tồn tại một số điểm và khu vực biên giới không lớn, ở đó hai bên không nhất trí với nhau trong khi giải thích các Công ước.
Ngày 2-11-1957, Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị hai bên tôn trọng đường biên giới lịch sử do hai Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895 để lại và giải quyết mọi tranh chấp có thể thông qua thương lượng hòa bình. Bức thư nhấn mạnh: "Vấn đề quốc giới là một vấn đề quan trọng cần giải quyết theo những nguyên tắc pháp lý đang có hoặc được xác định lại do Chính phủ hai nước quyết định". Tháng 4-1958, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý với đề nghị của phía Việt Nam, tôn trọng hiện trạng đường biên giới lịch sử được Công ước 1887 và 1895 xác lập. Đây là thắng lợi quan trọng của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong bối cảnh nước Trung Quốc mới không chấp nhận các hiệp ước biên giới được coi là bất bình đẳng khi Trung Quốc phong kiến phải ký với các nước thực dân. Tuy nhiên, do chiến tranh chống Mỹ, hai nước đã không có điều kiện hoàn thiện chất lượng đường biên giới. Đàm phán về biên giới Việt - Trung lần thứ nhất chỉ được bắt đầu tại Bắc Kinh ngày 15-8-1974. Cuộc đàm phán lần thứ hai bắt đầu từ ngày 7-10-1977 đến tháng 6-1978. Đàm phán lần thứ ba được nối lại tại Hà Nội từ ngày 18-4-1979. Phía Việt Nam đã đưa ra đề nghị 3 điểm, trong đó điểm 3 nêu rõ: "Việc giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ giữa hai nước tuân theo nguyên tắc tôn trọng nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại và đã được hoạch định bởi các Công ước 1887 và 1895 do Chính phủ Pháp và nhà Thanh ký, và đã được phía Việt Nam và phía Trung Quốc đồng ý chấp nhận".
Sau khi bình thường hóa quan hệ, đàm phán về biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc lần thứ tư bắt đầu từ tháng 10-1992. Ngày 19-10-1993, hai Đoàn đàm phán Chính phủ đã ký Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc; phần nói về biên giới trên bộ quy định: "Hai bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới ký giữa Trung Quốc và Pháp ngày 26 tháng 6 năm 1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới ngày 20 tháng 6 năm 1895 cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định và cắm mốc biên giới kèm theo đã được Công ước và Công ước bổ sung nói trên xác nhận hoặc quy định, cũng như các mốc quốc giới cắm theo quy định, đối chiếu xác định lại toàn bộ đường biên giới trên bộ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc".
Đàm phán lần thứ tư là cuộc đàm phán dài nhất (7 năm) trên nhiều diễn đàn (cấp Chính phủ - 6 vòng, cấp chuyên viên - 16 vòng, không kể các vòng cấp kỹ thuật...). Kết quả hai bên đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền ngày 30-12-1999.
Quá trình phân giới cắm mốc trên đất liền
Trong quá trình đàm phán, hai bên đã so sánh các Công ước Pháp - Thanh, văn bản pháp lý và bản đồ kèm theo. Đối với gần 900 km trên tổng chiều dài biên giới khoảng 1.350km (đo trên bộ bản đồ thể hiện đường biên giới chủ trương của hai bên), nhận thức của hai bên trùng nhau, tức là không có tranh chấp. Khoảng 450km còn lại, tức là 33% tổng chiều dài đường biên giới, do không có văn bản, hoặc văn bản và bản đồ chưa rõ ràng nên nhận thức của hai bên có khác nhau, được chia thành 289 khu vực (với tổng diện tích khoảng 231km2); trong đó: 74 khu vực khác nhau vì lý do kỹ thuật vẽ chồng lấn lên nhau, được gọi là khu vực A; 51 khu vực vì lý do kỹ thuật hai bên đều chưa vẽ tới, gọi là khu vực B. Các khu vực loại A và B có diện tích không lớn, chỉ khoảng 5km2; 164 khu vực có tranh chấp, hoặc có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới, gọi là khu vực C (rộng khoảng 227km2). Các cuộc đàm phán chủ yếu tập trung vào việc xử lý 164 khu vực C. Hiệp ước 1999 đã ghi nhận kết quả, quy thuộc khoảng 114,9km2 cho Việt Nam (gồm 112,3km2 thuộc khu vực C; 2,6km2 thuộc khu vực A và B) và khoảng 117,2km2 thuộc Trung Quốc (trong đó có 114,8km2 thuộc khu vực C; 2,4km2 thuộc khu vực A và B). Đây là một kết quả công bằng mà hai bên chấp nhận và là cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành PGCM, tức là chuyển đường biên giới từ lời văn Hiệp ước 1999 và bản đồ ra thực địa một cách chính xác, rõ ràng, bằng một hệ thống mốc giới chính quy, hiện đại. Đây là một công trình trọng điểm quốc gia, có khối lượng công việc lớn, nội dung liên quan đến nhiều chuyên ngành kỹ thuật, pháp lý, quản lý, bảo vệ... của các bộ, ngành Trung ương, 7 tỉnh biên giới Việt - Trung và 2 tỉnh biên giới Trung - Việt. Công việc được thực hiện trong thời gian dài và có tính song phương tại thực địa trong điều kiện khó khăn về địa hình (nhiều núi cao trên 1.000m - 2.000m), cơ sở hạ tầng, giao thông kém phát triển và xa các khu dân cư, nhiều nơi không có đường đi lại, bom mìn, vật nổ nhiều, khí hậu khắc nghiệt, một số khu vực dân cư đan xen nhau và dân cư biên giới có nhiều quan hệ huyết thống, dòng họ, qua lại với nhau từ lâu đời. Toàn tuyến biên giới được chia thành 12 đoạn giao cho 12 Nhóm PGCM phụ trách. Tháng 12-2001, hai bên cắm cột mốc đầu tiên (mốc 1369) tại cửa khẩu Móng Cái - Đông Hưng. Từ tháng 10-2002, hai bên đồng loạt triển khai PGCM trên toàn tuyến biên giới Việt- Trung, lúc đầu theo hình thức cuốn chiếu từ Tây sang Đông, sau đó là phương châm “dễ trước, khó sau”. Đến năm 2007, hai bên đã xác định được gần 70% vị trí mốc giới. Các khu vực tồn đọng đều là các khu vực khó, nhạy cảm, có lịch sử tranh chấp lâu đời. Hai bên gặp nhiều khó khăn trong giải quyết các mâu thuẫn giữa lời văn với bản đồ đính kèm Hiệp ước, giữa bản đồ với thực địa và sự không rõ ràng của một số từ ngữ trong Hiệp ước như “phía Nam”, “mé”, “xuống khe”... Còn lại 109 khu vực, phần lớn là các khu vực loại C (toàn tuyến có 164 khu vực loại C với khoảng 600 mốc chưa xác định vị trí, chưa cắm). Để thực hiện quyết tâm của lãnh đạo cấp cao hai nước, từ đầu năm 2008, ủy ban liên hợp và Đoàn đàm phán Chính phủ đã trực tiếp trao đổi giải quyết, giao kết quả cho các Nhóm PGCM thực hiện. Hai bên đã tiến hành 10 vòng đàm phán ủy ban liên hợp, 5 vòng đàm phán và gặp đặc biệt của 2 Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ, vòng ngắn nhất kéo dài 9 ngày, vòng dài nhất lên đến 23 ngày, phiên họp dài nhất diễn ra trong 31 giờ liền. Càng về cuối, đàm phán càng khó khăn, căng thẳng. Các lực lượng PGCM của ta đã có những nỗ lực hết sức to lớn cả trên bàn đàm phán và trên thực địa. Lãnh đạo Chính phủ đã sâu sát ra tận thực địa thị sát, chỉ đạo: Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã lên Thác Bản Giốc tháng 10-2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tới tận Cửa sông Bắc Luân tháng 12-2008.
Hai bên đã cùng thỏa thuận và áp dụng sáng tạo nguyên tắc “cả gói” để giải quyết các khu vực tồn đọng với mục đích tìm giải pháp tổng thể, công bằng, hợp lý, hợp tình, để có thể chấp nhận được. Nội dung chính của nguyên tắc này là, giải quyết trên cơ sở cân bằng lợi ích và diện tích, biên giới đi qua tất cả các mốc cũ, dấu tích lịch sử, hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng đến đời sống của cư dân biên giới. Hai bên đã lần lượt chia các khu vực tồn đọng ra thành nhiều gói, mỗi gói giải quyết theo một số nguyên tắc nhất định, như “gói 11+1 mốc cũ”, “gói các khu vực trong C, ngoài C”, “gói các cửa khẩu” Trà Lĩnh, Pò Peo, Tân Thanh, Hữu Nghị (đường bộ và đường sắt), Chi Ma, “gói sông suối”, “gói các khu vực đặc thù” và “gói Thác Bản Giốc và Cửa sông Bắc Luân”. Hai bên đã trao đổi một cách thẳng thắn nhằm đạt được kết quả công bằng, tôn trọng lời văn và tinh thần của Hiệp ước 1999, nhất là tại các khu vực nhạy cảm đối với dư luận trong nước và quốc tế. Tại Cửa khẩu Hữu Nghị, đường biên giới đi qua km số 0, mốc 19 cũ của Pháp và điểm cách điểm nối ray 148m về phía bắc, đúng như lời văn của Hiệp ước 1999. Khu vực Thác Bản Giốc và Cửa sông Bắc Luân được giải quyết bằng giải pháp chính trị trên tinh thần cả gói. Tại khu vực Thác Bản Giốc, theo quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế, đường biên giới đi theo trung tuyến dòng chảy phía nam cồn Pò Thoong, hai bên đã điều chỉnh đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu tích Trạm thủy văn xây dựng vào những năm 60 thế kỷ XX, quy thuộc 1/4 cồn, 1/2 thác chính và toàn bộ thác cao cho Việt Nam. Hai bên cũng nhất trí không xây dựng các công trình nhân tạo tại khu vực Thác Bản Giốc để bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái; đồng thời sẽ trao đổi về việc ký kết một Hiệp định Chính phủ về việc cùng hợp tác khai thác tài nguyên và tiềm năng du lịch của khu vực Thác Bản Giốc.
Tại cửa sông Bắc Luân, biên giới quy thuộc 3/4 bãi Tục Lãm và 1/3 bãi Dậu Gót cho Việt Nam, 1/4 bãi Tục Lãm và 2/3 bãi Dậu Gót cho Trung Quốc, và thiết lập khu giao thông thủy tự do cho nhân dân địa phương sử dụng luồng hai bên bãi Tục Lãm và Dậu Gót. Trong phạm vi này, tàu thuyền của nhân dân hai bên chỉ có quyền đi lại (vô hại) mà không được quyền đánh bắt, nuôi trồng thủy sản. Hai bên thỏa thuận, quy định này sẽ được ghi rõ trong Nghị định thư PGCM và bản đồ đính kèm. Hai bên cùng nhất trí không xây dựng công trình nhân tạo tại khu vực bãi Tục Lãm, hòn Tài Xẹc, bãi Dậu Gót và sẽ ký kết một thỏa thuận cấp Chính phủ để chi tiết hóa việc quản lý khu vực này.
Tại khu vực Hoành Mô, đường biên giới đi giữa ngầm như từ trước đến nay chứ không theo trung tuyến dòng chảy qua cống mới do Trung Quốc xây dựng trong những năm 60. Tại Cửa khẩu Ma Lù Thàng (Lai Châu), biên giới đi theo trung tuyến giữa hai bờ kè công trình xây dựng của hai bên trong khi trước đó bạn đòi phá bỏ các công trình để khôi phục lại dòng chảy. Khu vực mồ mả ở mốc 53 - 54 cũ (Cao Bằng) được giữ lại cho người dân Việt Nam mặc dù hai bên có nhận thức khác nhau về quy định của Hiệp ước 1999 về biên giới khu vực này đi theo chân núi. Khu vực rừng hồi mà người dân Trung Quốc trồng gần biên giới Quảng Ninh được bảo lưu cho phía Trung Quốc. Theo Hiệp ước 1999, đường biên giới cắt ngang qua bản Ma Lỳ Sán (gồm 05 hộ, 35 khẩu thuộc tỉnh Hà Giang) và khu 13 nóc nhà của người dân Trung Quốc gần Lạng Sơn, hai bên hoán đổi cho nhau trên cơ sở cân bằng diện tích, không xáo trộn đời sống dân cư. Các chốt quân sự của Trung Quốc trên biên giới đã được dỡ bỏ toàn bộ v.v.. Nhiều khu vực tranh chấp hằng thế kỷ như Chi Ma, Trà Lĩnh, Sóc Giang... đã được giải quyết thỏa đáng, đáp ứng nguyện vọng và mong mỏi của nhân dân hai nước.
Thành quả của mối quan hệ đối tác chiến lược
Kết quả đàm phán đã theo đúng các nguyên tắc chỉ đạo của lãnh đạo cấp cao hai nước: Căn cứ theo Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ký năm 1999, xuất phát từ lợi ích cơ bản của nhân dân hai nước và việc phát triển quan hệ truyền thống hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc, hiệp thương hữu nghị, thẳng thắn, chiếu cố thích đáng đến các mối quan tâm của nhau, cố gắng hết sức giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống sản xuất của người dân vùng biên giới hai nước, tìm giải pháp hai bên đều chấp nhận được, hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc trong năm 2008 nhưng không nôn nóng, vội vã. Thành quả có được là nhờ sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của lãnh đạo cấp cao hai nước và những nỗ lực không mệt mỏi của hai Đoàn đàm phán cấp Chính phủ cũng như các chuyên gia, đại diện của các ngành hữu quan và các tỉnh có chung biên giới. Đây cũng là thành quả của tinh thần giữ vững nền độc lập tự chủ của đất nước, nắm vững và vận dụng linh hoạt luật pháp quốc tế, tham khảo ý kiến và tạo sự đồng thuận của mọi người dân đất Việt trong và ngoài nước, tiếp thu kinh nghiệm giải quyết hòa bình các tranh chấp của các nước khác. Kết quả này là sự thể hiện sinh động của mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, cũng là sự đóng góp tích cực đối với hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực.
Năm 2008 đã được xác định là năm hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt - Trung. Đây là quyết tâm đã được lãnh đạo Đảng và Chính phủ hai nước nhiều lần khẳng định (trong chuyến thăm Trung Quốc tháng 7-2005 của Chủ tịch nước Trần Đức Lương và trong chuyến thăm Việt Nam tháng 7-2005 của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào; trong cuộc họp Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Chính phủ Việt Nam - Trung Quốc tháng 1-2008 giữa Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Đường Gia Triền và Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Gia Khiêm, trong Thông cáo chung Việt Nam - Trung Quốc ngày 1-6-2008 nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, và trong Tuyên bố chung ngày 22-10-2008 nhân chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng). Đây cũng là thành quả 17 năm nỗ lực giải quyết biên giới Việt Nam - Trung Quốc (1991 - 1999 đàm phán và ký Hiệp ước hoạch định biên giới trên đất liền ngày 30-12-1999; 2000 - 2008 đàm phán và phân giới, cắm mốc trên thực địa, ký biên bản hai Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ và ra Tuyên bố chung kết thúc PGCM ngày 31-12-2008). Việc hoàn thành PGCM trong năm 2008 là sự kiện lịch sử trọng đại trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc với kết quả cả hai bên cùng chấp nhận được, tăng cường sự tin cậy giữa hai bên, thúc đẩy quan hệ hai nước, mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước, đặc biệt là tạo điều kiện cho các địa phương biên giới hai bên mở rộng hợp tác, phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu hữu nghị; tạo tiền đề vững chắc để xây dựng biên giới Việt - Trung thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài./.
Kết thúc phiên điều trần lần thứ 2 về chất độc da cam ở Việt Nam  (06/06/2009)
Hội nghị đánh giá công tác quản lý nhà nước về báo chí 2 năm 2007-2008  (05/06/2009)
Hội nghị đánh giá công tác quản lý nhà nước về báo chí 2 năm 2007-2008  (05/06/2009)
Hướng tới bảo đảm bền vững về môi trường  (05/06/2009)
ILO công bố những dự báo mới về thất nghiệp toàn cầu và ở Việt Nam  (05/06/2009)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên