Quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc: một chặng đường nhìn lại
Thực hiện đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế và chính sách mở cửa nền kinh tế do Đại hội VI đề ra, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt chú trọng phát triển quan hệ với Trung Quốc trên cơ sở 16 chữ vàng. Kết quả của quá trình đó phần nào thể hiện trong phát triển các quan hệ kinh tế - thương mại, nhất là hoạt động xuất - nhập khẩu giữa hai nước.
1 - Phân tích quy mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng hóa giai đoạn 1991 - 2007
Hình 1: Động thái xuất - nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc.
(Nguồn: Niên giám thống kê 1995-2006 và tính toán của nhóm nghiên cứu) |
Bảng 1: Kim ngạch XNK Việt Nam - Trung Quốc phân theo từng kế hoạch 5 năm
Giai đoạn |
Tổng kim ngạch xuất-nhập khẩu (triệu USD) |
Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) |
Tăng bình quân năm, % |
Kim ngạch nhập khẩu (triệu USD) |
Tăng bình quân năm % |
1991-1995 |
1.517,7 |
908,1 |
245,7 |
609,6 |
209,8 |
1996-2000 |
6.870,1 |
3.537,2 |
151,8 |
333.2,9 |
147,8 |
2001-2006 |
37.536,9 |
13.387,8 |
117,9 |
24.536,5 |
135,5 |
Từ năm 2000, thương mại hai nước bắt đầu tăng nhanh đáng kể. Hai nước đã đưa ra mục tiêu kim ngạch buôn bán hai chiều đạt 5 tỉ USD vào năm 2005 (tăng bình quân hơn 11,1%/năm), nhưng ngay từ năm 2003, về cơ bản, hai nước đã tiến gần sát mục tiêu của năm 2005 khi đạt kim ngạch lên tới 4,87 tỉ USD. Đến năm 2005, kim ngạch buôn bán hai chiều đạt 8,739 tỉ USD (cao gấp 1,75 lần mục tiêu đề ra) và đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 19,79%/năm.
Năm 2006, với kim ngạch buôn bán hai chiều đạt 10,421 tỉ USD, "ngưỡng" 10 tỉ USD cũng đã bị vượt qua. Tính chung lại, trong 6 năm vừa qua, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Trung Quốc đã tăng bình quân 23,36%/năm, liên tục trong ba năm gần đây, Trung Quốc đã thay Nhật Bản trở thành đối tác thương mại lớn nhất của nước ta.
Năm 2007, kim ngạch hai chiều ước đạt 13,2 tỉ USD (xuất khẩu đạt 3,2 tỉ USD, nhập siêu 6,8 tỉ USD) tạo đà cho việc "về đích" trước thời hạn mục tiêu 15 tỉ USD vào năm 2010 mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã xác lập.
Xét trên tổng thể, các số liệu thống kê của nước ta trong 6 năm gần đây cho thấy, sau bước lùi vào thời điểm năm 2001, xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc tuy đã liên tục phát triển, đặc biệt là bước đại nhảy vọt vào năm 2004, nhưng nhịp độ tăng trưởng bình quân cũng chỉ là 12,02%.
Rõ ràng, đây là con số khá thấp nếu so với nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu chung ra thị trường thế giới trong cùng kỳ (18,41%/năm), và càng thấp so với nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu 19,23%/năm sang 9 đối tác thương mại (gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a, Xin-ga-po, CHLB Đức, Hà Lan, Anh, Đài Loan và Pháp) hiện đang chiếm 59,20% tổng lượng hàng hóa của nước ta xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Nếu xem xét một cách chi tiết hơn, vấn đề không phải chỉ là tốc độ phát triển xuất khẩu đã bị chững lại, mà đã xuất hiện xu hướng suy giảm một cách hết sức đáng lo ngại hiện nay trong việc phát triển thị trường này.
2 - Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc
Hiện nay, Trung Quốc đang là bạn hàng nhập khẩu số 1 về cao su, hạt điều, thứ 3 về thuỷ sản, là nước nhập khẩu trên 56% giá trị rau quả tươi xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, một số mặt hàng tiêu dùng của Việt Nam cũng bắt đầu thâm nhập và từng bước mở rộng thị phần trên thị trường Trung Quốc như: giày dép, hàng dệt may, linh kiện điện tử...
Trong sáu năm gần đây (2002 - 2007), nhìn chung cơ cấu hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đã không ngừng được mở rộng. Cụ thể, ở thời điểm năm 2001, trong danh mục những mặt hàng chủ yếu của nước ta xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt kim ngạch từ 1 triệu USD trở lên tuy gồm 15 mặt hàng, nhưng tổng cộng cũng chỉ đạt 1,156 tỉ USD và chiếm 81,52% tổng kim ngạch xuất khẩu của năm này. Năm 2006, tuy danh mục này cũng chỉ tăng lên 18 mặt hàng, nhưng đã đạt 2,331 tỉ USD và chiếm 76,93% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Nếu năm 2001, quy mô xuất khẩu 10 triệu USD trở lên chỉ gồm 8 mặt hàng, thì con số này trong năm 2006 đã là 13 mặt hàng.
Bảng 2: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung Quốc (triệu USD)
TT |
Mặt hàng |
2002 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
1 |
Dầu thô |
686,79 |
187,80 |
1.471,00 |
1.160.16 |
399,91 |
2 |
Cao su |
88,66 |
147,00 |
357,00 |
519,20 |
851,38 |
3 |
Thủy sản |
195,30 |
77,80 |
48,10 |
61.97 |
65,05 |
4 |
Rau quả |
121,50 |
67,10 |
24,90 |
34,94 |
24,61 |
5 |
Hạt điều |
38,10 |
52,40 |
70,20 |
97,36 |
94,49 |
6 |
Than đá |
44,10 |
48,87 |
134,00 |
370,17 |
594,76 |
7 |
Dệt may |
19,59 |
28,45 |
14,80 |
8,14 |
|
8 |
Máy tính linh kiện |
19,30 |
22,49 |
25,90 |
74,56 |
73,81 |
9 |
Đồ gỗ |
11,30 |
12,38 |
35,00 |
60,34 |
94,07 |
10 |
Giày dép |
7,28 |
10,91 |
18,30 |
28,32 |
29,70 |
11 |
Sản phẩm nhựa |
2,80 |
7,44 |
4,70 |
3,14 |
|
12 |
Cà phê |
3,92 |
6,90 |
5,80 |
7,63 |
|
13 |
Gạo |
1,68 |
0,29 |
19,20 |
11,96 |
12,44 |
Nguồn: Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương).
Như vậy, đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc là vấn đề mang tính chiến lược của nước ta hiện nay do Trung Quốc - một nền kinh tế mang tính "công xưởng" của thế giới, và sẽ còn phát triển nhanh trong những năm tới. Vấn đề đặt ra là: nếu như cơ cấu hàng hóa xuất khẩu không có những bước chuyển mạnh mẽ, xu thế suy giảm tốc độ xuất khẩu sang thị trường này sẽ là điều không thể tránh khỏi.
3 - Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường Trung Quốc
- Giai đoạn 1991 - 1995: Những mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn này chủ yếu là: thuốc bắc, bông, vải sợi, hàng dệt kim và quần áo may sẵn, pin các loại, thuốc lá, xà phòng giặt, nước giải khát, dầu thực vật, đường sữa, đồ dùng gia đình, xe đạp, giấy... hàng hóa nhập từ Trung Quốc với khối lượng lớn, chủng loại đa dạng, chất lượng thấp nhưng giá rẻ, phù hợp với thu nhập ở mức thấp nên chỉ sau một thời gian ngắn đã tràn ngập thị trường Việt Nam. Đặc biệt, trong thời kỳ này, hàng hóa nhập lậu qua biên giới với khối lượng lớn đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến một số ngành sản xuất của Việt Nam như: dệt kim, may mặc, sành sứ, thủy tinh, sản xuất xe đạp...
- Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là thời kỳ mà kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng tương đối ổn định, tăng 8 lần so với giai đoạn 1991 - 1995. Hàng hóa Trung Quốc xuất sang Việt Nam rất phong phú và đa dạng (có 200 nhóm và mặt hàng, gấp đôi số nhóm và mặt hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc). Trong các mặt hàng và nhóm hàng nhập khẩu nêu trên, hàng hóa là máy móc thiết bị chiếm 27,95%, nguyên liệu chiếm 19,7%; hàng tiêu dùng chiếm 47%... Những nhóm hàng có khối lượng nhập lớn trong thời kỳ này là: máy móc nông nghiệp và chế biến nông lâm sản, thiết bị sản xuất xi-măng lò đứng, máy móc cho ngành dệt, thiết bị sản xuất phân bón và các loại máy phát điện cỡ nhỏ.
- Giai đoạn 2001- 2007: Các số liệu thống kê những năm gần đây cho thấy, nếu như kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ thị trường Trung Quốc năm 2000 chỉ mới là 1,4 tỉ USD, thì năm 2006 đã đạt 7,391 tỉ USD, tức là đã tăng 31,59%/năm. Đây thực sự là một kỷ lục xét trên nhiều phương diện: tăng cao 1,64 lần nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu chung từ thị trường thế giới; tăng cao kỷ lục so với nhịp độ tăng nhập khẩu từ 9 thị trường chủ yếu của nước ta trong giai đoạn này. Năm 2007, nhập siêu từ Trung Quốc vẫn ở mức cao 6,8 tỉ USD.
Chính vì nhập khẩu hàng hóa từ thị trường này liên tục bùng nổ như vậy, cho nên ngay từ năm 2003, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản để trở thành quốc gia xuất khẩu hàng hóa lớn nhất vào nước ta trong bốn năm qua. Con số kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của nước ta từ thị trường Trung Quốc lớn hơn gấp 2,44 và 3,12 lần kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này vào các năm 2006 và 2007 cho thấy một thực tế là: dù thị trường nước ta còn rất nhỏ, nhưng các doanh nghiệp Trung Quốc đã khai thác thị trường nước ta tốt hơn nhiều so với những gì các doanh nghiệp nước ta làm được từ thị trường này.
4 - Về cán cân thương mại giữa Việt Nam với Trung Quốc
Các kết quả tính toán từ các số liệu thống kê xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam với Trung Quốc trong bảy năm gần đây cho thấy, từ xuất phát điểm xuất siêu 110,8 triệu USD, bằng 7,79% kim ngạch nhập khẩu năm 2000, chúng ta đã chuyển sang nhập siêu gần gấp đôi trong năm 2001 (211,0 triệu USD), bằng 14,48% kim ngạch xuất khẩu và đến nay vẫn hầu như liên tục tăng "phi mã": năm 2002 tăng lên 6.63,3 triệu USD; năm 2003 tăng gần gấp ba lần (1.734,6 triệu USD); năm 2004 dừng ở mức 1.721,1 triệu USD; năm 2005 tăng gấp 1,64 lần (2.817,9 triệu USD); năm 2006 vừa qua tiếp tục tăng 1,55 lần và đạt kỷ lục 4.360,9 triệu USD. Năm 2007, nhập siêu 6,8 tỉ USD, gấp 61,4 lần. Tính chung lại, trong những năm đầu thập kỷ này, nhịp độ tăng nhập siêu của nước ta từ thị trường Trung Quốc đã đạt kỷ lục 83,26%/năm.
Đây thực sự là những mức nhập siêu rất cao, bởi chỉ riêng nhập siêu từ riêng thị trường này đã chiếm tỷ trọng khá lớn trong "rổ hàng hóa nhập siêu" của nước ta: năm 2001: 18,58%; năm 2002: 21,91%; năm 2003: 34,34%; năm 2004: 31,58%; năm 2005: 62,12%; năm 2006 đạt kỷ lục 86,10%. Năm 2007 là 61,8%.
Nếu kể cả thương mại dịch vụ, bao gồm ngân hàng, du lịch, viễn thông và mua điện thì chắc chắn thâm hụt thương mại của Việt Nam còn cao hơn số liệu đã được Hải quan Việt Nam và Hải quan Trung Quốc công bố.
Mặc dù có sự thâm hụt cao trong cán cân thương mại với Trung Quốc, nhưng đó là điều kiện cho phát triển kinh tế và xuất khẩu sang các thị trường khác. Như vậy, mô hình xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc có bị thâm hụt cao, nhưng không phải là điều quá phải lo lắng khi thâm hụt này được bù đắp bằng thặng dư từ các thị trường khác. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng: Nhập siêu rất lớn ở một số quốc gia châu Á, xuất siêu ở một số quốc gia ngoài khu vực châu á đã trở thành "căn bệnh cố hữu" của nền kinh tế nước ta.
Xét về phương thức giao dịch, thương mại Việt Nam - Trung Quốc chủ yếu thực hiện qua đường tiểu ngạch. Buôn bán tiểu ngạch tạo thuận lợi cho doanh nghiệp giảm được 50% thuế, tiết kiệm một số chi phí bao bì, chất lượng hàng hóa không đòi hỏi cao, thậm chí tránh được kiểm dịch về an toàn vệ sinh. Nhưng buôn bán tiểu ngạch có nhiều điểm yếu: bị động, không ổn định, thiếu bền vững, rủi ro cao. Yếu tố không chắc chắn trong buôn bán tiểu ngạch khiến thương mại Việt Nam - Trung Quốc rủi ro cao và cũng tác động vào các hợp đồng thương mại chính ngạch trong nước. Buôn bán tiểu ngạch diễn ra phụ thuộc chủ yếu vào giá cả, khi giá tăng dẫn tới hiện tượng tranh mua ở thị trường trong nước, việc tranh mua đối với nhiều loại nông sản gây phá vỡ các hợp đồng của các đối tác đã ký hợp đồng tiêu thụ nông sản với nông dân.
Với phương châm là tận dụng tối đa cơ hội từ sự phát triển của Trung Quốc để tăng kim ngạch xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, quản lý tốt thương mại biên mậu, xử lý tốt các vấn đề tranh chấp thương mại, trao đổi thương mại trên cơ sở quan hệ kinh doanh thương mại bình đẳng theo đúng khung khổ WTO, những định hướng lớn phát triển thương mại Việt Nam với Trung Quốc cần lưu ý là:
Về xuất khẩu: Trước hết, phải củng cố và đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng chủ lực đang xuất khẩu và đã đứng chân được tại thị trường Trung Quốc. Từng bước nâng cao chất lượng, tăng hàm lượng chế biến, giảm xuất khẩu thô. Khai thác tiềm năng xuất khẩu những mặt hàng mới theo hướng đầu tư từ các nguồn vốn trong nước và vốn FDI. Tận dụng cơ hội của mở cửa thương mại và đầu tư để thu hút FDI đẩy mạnh xuất khẩu, tham gia vào chuỗi giá trị hàng hóa của khu vực. Phấn đấu tăng tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc. Đẩy mạnh hợp tác thương mại theo hướng hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp Trung Quốc.
- Về nhập khẩu: Trong giai đoạn 2007 - 2015, nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường Trung Quốc vẫn tăng mạnh do mở cửa thương mại và nhu cầu về nguyên liệu, thiết bị, máy móc của ta vẫn còn lớn. Sẽ có sự chuyển giao công nghệ từ Trung Quốc sang Việt Nam trong những ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, lắp ráp điện tử. Dự báo, tốc độ tăng nhập khẩu vẫn ở mức cao từ nay cho đến 2015, trong đó giai đoạn 2008 - 2010 tăng cao hơn. Dự kiến tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 12%/năm.
- Về xử lý nhập siêu: Do nhu cầu của Việt Nam về nhập khẩu các loại hàng hóa từ Trung Quốc còn rất lớn và cùng với việc miễn giảm thuế theo khuôn khổ ACFTA, hàng nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng mạnh, trong khi xuất khẩu của Việt Nam tăng có mức độ và các giải pháp hạn chế nhập siêu chưa thể phát huy tốt hiệu quả, thì tình hình nhập siêu từ Trung Quốc giai đoạn 2008 - 2015 chưa thể có sự thay đổi lớn, thậm chí còn tăng đến 2015. Tuy nhiên, việc nhập siêu từ Trung Quốc phải được nhìn nhận trên góc độ tổng thể và dài hạn. Nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn này là điều kiện để tăng xuất khẩu ở thị trường khác. Như vậy, Việt Nam chỉ có thể đặt vấn đề là không để nhập siêu từ Trung Quốc tăng quá mức.
- Về phát triển mậu dịch biên giới: Phấn đấu đến năm 2010, tiến tới lành mạnh hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của biên mậu Việt Nam - Trung Quốc để góp phần phát triển kinh tế, thương mại của các tỉnh giáp biên giới hai nước. Phấn đấu xây dựng các trung tâm hàng hóa tại các tỉnh giáp biên giới để phục vụ cho hoạt động xuất nhập của cả nước qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Cần xây dựng cơ chế điều tiết, quản lý biên mậu linh hoạt, hiệu quả từ Trung ương đến địa phương. Phát huy tối đa lợi thế về địa lý và điều kiện tự nhiên biên giới với Trung Quốc để phát triển hoạt động biên mậu giữa hai nước. Phát triển biên mậu Việt Nam - Trung Quốc theo hướng văn minh, hiện đại, góp phần chống buôn lậu, đồng thời kết hợp với bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới.
- Về phát triển kết cấu hạ tầng thương mại: Tăng cường hợp tác xây dựng kết cấu hạ tầng cho hoạt động thương mại như đường giao thông, các khu kinh tế cửa khẩu, nâng cấp các cảng chu chuyển. Đẩy mạnh hợp tác về ngân hàng, thanh toán, kết cấu hạ tầng về thông tin. Đầu tư cho công tác hải quan, kiểm định hàng hóa xuất nhập khẩu
5 - Một số giải pháp
- Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý cho hợp tác thương mại với Trung Quốc: Rà soát lại những hiệp định đã ký kết giữa hai bên để có những điều chỉnh phù hợp với các cam kết quốc tế (WTO, ACFTA), đồng thời nâng cao tính hiệu lực của các điều khoản đã cam kết. Điều chỉnh và bổ sung các chính sách giữa Việt Nam và Trung Quốc theo hướng tạo cơ chế mở hơn nữa cho hoạt động thương mại trên các hành lang; hoàn thiện chính sách thuế tạo môi trường thuận lợi cho thương mại và đầu tư, như áp dụng chính sách ưu đãi tài chính đối với vùng kinh tế cửa khẩu; cải thiện hệ thống thanh toán, tăng cường sự phối hợp trao đổi định kỳ các biện pháp quản lý và giám sát buôn bán qua biên giới.
- Tranh thủ những thuận lợi có được sau khi gia nhập WTO và bối cảnh hội nhập khu vực để thu hút đầu tư nước ngoài nhằm phát triển xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Đây là giải pháp quan trọng nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại với Trung Quốc. Trước hết, cần cải thiện môi trường đầu tư để thu hút FDI vào các lĩnh vực công nghệ cao, kết cấu hạ tầng và công nghiệp chế biến. Tuy nhiên, Việt Nam cần có chính sách để kiểm soát việc nhập khẩu công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường.
- Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu để tận dụng lợi thế cạnh tranh trong quan hệ thương mại với Trung Quốc. Nỗ lực chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng xác lập lợi thế so sánh trong những ngành liên quan đến máy móc. Phát huy lợi thế so sánh để khai thác khu vực thị trường mở ASEAN - Trung Quốc. Đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng chủ lực đang xuất khẩu và đã đứng chân được tại thị trường Trung Quốc, tiếp tục nghiên cứu mở rộng mặt hàng để có đầu tư dài hạn.
- Mở rộng các hình thức hợp tác, thúc đẩy phát triển thương mại với Trung Quốc như đẩy mạnh hợp tác xây dựng cửa khẩu và đường thông thương, tăng cường hợp tác kỹ thuật và đầu tư, du lịch, hợp tác xây dựng hai hành lang và một vành đai kinh tế, kết hợp phát triển mậu dịch biên giới với hợp tác kinh tế, tăng cường hợp tác chống buôn lậu và gian lận thương mại, hợp tác về đào tạo nguồn nhân lực...
- Đổi mới phương thức hoạt động thương mại, đẩy mạnh xúc tiến thương mại và đầu tư, phát triển các dịch vụ hỗ trợ phát triển thương mại, nghiên cứu các điều kiện về khả năng thực hiện Hiệp định thương mại tự do song phương với Trung Quốc, xây dựng chiến lược đối tác thương mại của Việt Nam với các quốc gia có nền kinh tế lớn và các nước trong khu vực.
- Chiến lược Vịnh Bắc Bộ mở rộng được kết cấu thành hai mảng lớn: a- Hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng (quan trọng nhất); b- Tiểu vùng sông Mê Kông với một trục ở giữa là hành lang kinh tế Nam Ninh- Xin-ga-po được Trung Quốc gọi tắt là chiến lược "Một trục hai cánh" - theo mô hình chữ M - viết theo tiếng Anh (được hiểu là tổ hợp hợp tác kinh tế trên biển, hợp tác kinh tế trên đất liền và hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông) được xem là sự phát triển lô-gíc, sự phát triển mở rộng của ý tưởng "Hai hành lang một vành đai" do Việt Nam khởi xướng. Trong thời gian tới, Việt Nam và Trung Quốc cần xúc tiến triển khai và đẩy nhanh việc tổ chức, thực hiện "Hai hành lang một vành đai" - hạt nhân - nơi thể nghiệm, thực thi thể chế hợp tác của chiến lược "Một trục hai cánh".
Việc tham gia vào Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc được xem là cuộc "tổng diễn tập" hội nhập kinh tế quốc tế và là một minh chứng có sức thuyết phục về việc Việt Nam đang tiến dần đến một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh.
ARF thúc đẩy đối thoại và lòng tin trong khu vực  (25/07/2008)
Bế mạc Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 41  (25/07/2008)
Cắt giảm gần 6.000 tỉ đồng vốn đầu tư từ ngân sách  (24/07/2008)
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7 giảm tốc  (24/07/2008)
Các ngoại trưởng EU không để giày da Việt Nam hưởng GSP  (24/07/2008)
Năm 2008 sẽ giải ngân trên 2 tỉ USD vốn ODA  (24/07/2008)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên